Thứ Tư, 28 tháng 11, 2018

Làm Thế Nào Để Hỗ Trợ Partner Của Bạn Với Những Vấn Đề Về Tâm Thần


  Trong một mối quan hệ với người bạn yêu có thể là điều rất đẹp. Nó cũng có thể là khó khăn, khi bạn phải đối mặt với những trở ngại của cuộc sống hàng ngày. Nhưng nếu partner của bạn phải đấu tranh với bệnh tâm thần thì những vấn đề đó có thể trở nên khó khăn hơn cho cả hai. Hiểu được nhu cầu của một người bị bệnh tâm thần là một thách thức. Và có thể bạn không biết làm thế nào để vừa hỗ trợ partner sống với bệnh tâm thần vừa chăm sóc cho nhu cầu của riêng bạn. Dưới đây là một vài cách bạn có thể đạt được sự cân bằng đó.

Hiểu chẩn đoán
  Bởi vì bản chất của bệnh tâm thần, nhiều người không thể nhận ra một ai đó có thể đau khổ nhiều như thế nào vì các triệu chứng của họ không bộc lộ rõ ràng ra ngoài. Đây là lý do tại sao sống với bệnh tâm thần có thể đem đến những thách thức đặc trưng cho cuộc sống hàng ngày, bao gồm cả sức khỏe thể chất và các mối quan hệ. Vì các triệu chứng của bệnh tâm thần có thể dao động từ khó tập trung đến những tình trạng nghiêm trọng hơn như trầm cảm tê liệt, lo âu nặng và ảo giác, điều quan trọng là phải hiểu chẩn đoán của partner và trải nghiệm cá nhân của họ.

Kết quả hình ảnh cho How To Be Supportive Of Your Partner With Mental Illness


Nghiên cứu những chiến thuật hỗ trợ

  Hiểu được chẩn đoán của partner có thể giúp dễ dàng xác định cách thức ở đó - cho họ khi mọi thứ trở nên khó khăn. Ví dụ, nếu partner của bạn sống chung với rối loạn lo âu lan toả, các chuyên gia khuyên bạn không nên lo lắng về những lo lắng của họ bằng cách trấn an một cách mù quáng rằng mọi thứ sẽ trở nên ổn thỏa. Thay vào đó, hỗ trợ phát triển các kỹ năng giải quyết vấn đề và khả năng thư giãn. Nếu partner của bạn thể hiện sự lo lắng, hãy hỏi về những mối quan tâm cụ thể của họ và lắng nghe khi họ tạo ra một kế hoạch để giải quyết chúng.
Hãy là người lắng nghe tốt
  Một trong những điều tốt nhất mà các partner có thể làm là lắng nghe những người thân yêu trong một nỗ lực để hiểu trải nghiệm của họ. Có thể bạn dễ dàng phỏng đoán những gì người khác đang trải qua, tuy nhiên điều này thường không xảy ra. Bệnh tâm thần ảnh hưởng đến các cá nhân một cách khác biệt, và điều quan trọng là lắng nghe những trải nghiệm đó để hiểu rõ hơn về quan điểm của họ và cung cấp sự hỗ trợ hiệu quả.
Năm nguyên tắc này có thể hình thành nền tảng cho kế hoạch của bạn để hỗ trợ người bị bệnh tâm thần.
  • Trấn an: "Tôi ở đây vì bạn. Tôi sẽ không ngừng thích / yêu bạn chỉ vì bạn đang gặp khó khăn".
  • Hỏi: "Điều gì sẽ hữu ích cho bạn ngay bây giờ?"
  • Đề nghị giúp: "Dọn dẹp giúp tôi đối phó với căng thẳng, và tôi muốn đến đó và dọn dẹp"
  • Đồng hành: "Tôi sẽ liên lạc với bạn lại vào ngày mai."
  • Khích lệ: "Đây không phải là do bạn muốn như vậy. Bạn mạnh mẽ mà."
Tôn trọng mối quan hệ của bạn ngoài bệnh tâm thần
  Bệnh tâm thần và các triệu chứng đi kèm với nó có thể là tất cả. Tuy nhiên, điều quan trọng là phải làm việc trên mối quan hệ của bạn theo cách bạn sẽ làm nếu bệnh tâm thần không phải là một vấn đề. Tiếp tục dành thời gian tốt để bên nhau và thể hiện tình yêu và sự ngưỡng mộ với nhau. Giao tiếp cởi mở, yêu thương có thể giúp các cặp đôi không đổ lỗi cho tất cả các vấn đề trong mối quan hệ với bệnh tâm thần và giúp họ giải quyết các vấn đề tiềm tàng khác. Rất nhiều cặp đôi đạt được bước tiến từ việc gặp một nhà trị liệu gia đình để họ có thể thảo luận các vấn đề với sự hướng dẫn của một chuyên gia đáng tin cậy.
Thực hành tự chăm sóc bản thân
  Là partner của một người bị bệnh tâm thần, thói quen tự chăm sóc của bạn có thể trượt dài khi bạn có khả năng phải chịu trách nhiệm lớn hơn với việc quản lý gia đình hoặc nuôi con. Nhưng để hỗ trợ hiệu quả partner của bạn, bạn phải tự chăm sóc bản thân. Điều quan trọng là ăn uống tốt, tập thể dục và duy trì sở thích và niềm đam mê của riêng bạn. Tự chăm sóc có thể bao gồm gặp chuyên gia sức khỏe tâm thần hoặc tham gia một nhóm hỗ trợ cho những người cũng có người thân được chẩn đoán mắc bệnh tâm thần.
  Là một partner của một người bị bệnh tâm thần, bạn có thể là một nguồn lực hỗ trợ tuyệt vời. Bằng cách giữ sức khỏe của chính mình, bạn có thể tiếp tục tham gia, cung cấp sự hỗ trợ đồng cảm và hướng dẫn người thân của bạn hướng tới sự chăm sóc chuyên nghiệp phù hợp. Mặc dù bạn có thể gặp một số thách thức, hãy nhớ rằng bạn không đơn độc.




Nguồn: NAMI - By Colleen O’Day 
Biên Dịch + Biên Tập: The  Uranian

Thứ Năm, 22 tháng 11, 2018

Nói Chuyện Với Nam Giới Về Trầm Cảm

  Cách đây không lâu, tôi phải ngồi xuống với một người bạn để thảo luận về những gì diễn ra trước mắt tôi và rồi điều đó trở thành một trận chiến với trầm cảm. Rõ ràng với tôi rằng chứng rối loạn suy nhược này đã ảnh hưởng đến cả anh ta và những người xung quanh anh ta, và đó là lúc cần thiết một vài loại can thiệp "yêu thương". Nhưng đây có phải là một cuộc trò chuyện gây hấn đáng có không. Và hơn nữa tôi là một nhà trị liệu!

Hình ảnh có liên quan

  Một phần khó khăn đó là các triệu chứng của bạn tôi như càng ngày càng thiếu kiên nhẫn, dễ cáu kỉnh và tức giận hơn những hành vi mà chúng ta thường thấy liên quan đến trầm cảm chẳng hạn như khóc, buồn bực và không có khả năng bắt đầu với bất kỳ nhiệm vụ nào, bởi vì mọi thứ có vẻ khó nhằn. Và đây thường là lý do tại sao trầm cảm ở nam giới có thể khó xác định hơn trầm cảm ở phụ nữ. Phụ nữ trầm cảm có xu hướng “hướng nội” (ngủ quá nhiều, khóc, ăn quá nhiều, uống quá nhiều, mất chức năng, vv), trong khi đàn ông trầm cảm có xu hướng “hướng ngoại” với những hành vi gây khó chịu. Vì vậy, một người phụ nữ trầm cảm có thể trông và hành động một cách trầm xuống, trong khi đó một người đàn ông trầm cảm có vẻ như anh ta là một tên bợm trợn.

 Vâng, cũng có nhiều người đàn ông bị trầm cảm với nước mắt và mất khả năng sinh hoạt, và cũng nhiều phụ nữ thể hiện sự tức giận và bùng nổ khi họ trầm cảm, nhưng theo nguyên tắc chung, phụ nữ trầm cảm thì rõ ràng hơn về những gì họ cảm thấy, trong khi đàn ông dường như là thể hiện không vui và giận dữ. Và đó là những gì tôi đã trải qua với bạn tôi - một người đàn ông tuyệt vời trong nhiều năm, người chậm rãi nhưng vững chắc dần dần trở nên cực kỳ khó chịu trong suốt một năm. Tôi biết rõ cá nhân này và cảm thấy chắc chắn rằng anh ấy đã hành động không phải vì anh ta là một kẻ tồi, nhưng bởi vì anh ta trầm cảm nên tôi quyết định chia sẻ điều này với anh ta. Nhưng đây vẫn không phải là một điều dễ dàng để làm.

 Tôi lo rằng:
  • Sẽ ra sao nếu tôi sai và anh ấy thực sự không trầm cảm?
  • Điều gì sẽ xảy ra nếu anh ta tức giận với tôi vì “lời cáo buộc” của tôi?
  • Điều gì sẽ xảy ra nếu cố gắng can thiệp sẽ làm mất đi của tôi một tình bạn quan trọng?

 Và rồi tôi lo lắng điều ngược lại:
  • Sẽ ra sao nếu tôi đúng, và tôi không nói điều gì hết, và anh ấy không bao giờ được giúp đỡ?
  • Điều gì sẽ xảy ra nếu anh ấy tuyệt vọng muốn biết rằng ai đó quan tâm đủ để nói gì đó?
  • Nếu tôi không can thiệp, và tôi mất một tình bạn quan trọng với việc tự tử?

  Vì vậy, khi một người trong cuộc sống của bạn đang có dấu hiệu trầm cảm, bạn đã khó khăn khi ra quyết định. Bạn sẽ chọn phần dường như dễ dàng và hy vọng mọi thứ của họ sẽ tự ổn hay là bạn bước lên và cố gắng giúp đỡ? Câu trả lời nếu bạn đang tự hỏi là bạn hoàn toàn phải bước lên và giúp đỡ.

  Trong nhiều khía cạnh, can thiệp vào trầm cảm cũng giống như can thiệp vào sự nghiện ngập. Đầu tiên và quan trọng nhất, bạn nên biết rằng những người trầm cảm, đặc biệt là đàn ông, có thể phủ nhận gay gắt về vấn đề của họ và tác động tiêu cực của họ đối với họ và những người xung quanh họ. Họ có thể thực sự không có kiến thức rằng họ trông và hành động trầm cảm. Và ngay cả khi họ nhận thức được thì họ có thể tạo ra một tá lời nói dối mà họ tự nói với họ (và những người khác) về lý do tại sao họ dường như đang phải đấu tranh vật lộn. Thông thường, họ đổ lỗi cho người khác, đặc biệt là những người thân thiết nhất, vì tâm trạng xấu của họ.
  Điều này tất nhiên có thể cố gắng để giúp họ khi khó khăn nhất. Nhưng có nhiều cách để can thiệp thành công.

Biết những gì bạn đang đối phó

  Đầu tiên và quan trọng nhất, bạn phải hiểu bản chất của trầm cảm, bao gồm các dấu hiệu và triệu chứng. Như đã nói ở trên, trầm cảm có thể biểu hiện khác nhau ở nam giới và phụ nữ. Nói chung, tuy nhiên, các dấu hiệu cảnh báo như sau:

  • Thể hiện một cái nhìn tiêu cực hoặc vô vọng.
  • Mất hứng thú với sở thích và hoạt động thấy thú vị trước đây.
  • Cách ly xã hội và cảm xúc.
  • Ngủ quá nhiều hoặc quá ít.
  • Ăn quá nhiều hoặc quá ít hoặc rất "nghèo nàn" (đồ ăn vặt).
  • Thể hiện sự xấu hổ, cảm giác tội lỗi và cảm xúc vô giá trị.
  • Nói về cái chết hoặc tự sát (ngay cả khi thoáng nghĩ tới).
  • Đột nhiên cáu kỉnh, kích động, tức giận, giận dữ, v.v.
  • Đổ lỗi cho người khác về các vấn đề cá nhân.
  • Cảm thấy bị mắc kẹt.
  • Đau không giải thích được và / hoặc bất ổn về thể chất.
  • Cảm thấy như một gánh nặng.
  • Tăng sử dụng rượu, ma túy hoặc hành vi gây nghiện (khiêu dâm, tình dục, cờ bạc, chi tiêu, v.v.)
  • Thay đổi tâm trạng cực đoan.

 Nếu bạn thấy nhiều hơn một hoặc hai dấu hiệu cảnh báo này kéo dài với một người đàn ông mà bạn quan tâm, bạn cần bắt đầu một cuộc trò chuyện về trầm cảm. Nếu bạn không thoải mái khi có cuộc trò chuyện riêng tư này, hãy nói chuyện với gia đình và bạn bè của mình và yêu cầu họ hỗ trợ.

Hình ảnh có liên quan
Lên tiếng

  Bạn không thể giúp một người đang gặp khó khăn nếu bạn không lên tiếng. Nếu bạn im lặng, trầm cảm sẽ tiếp tục, có lẽ vô thời hạn, hoặc cho đến khi cuối cùng anh ta tự sát. Vì vậy, bạn phải bắt đầu một cuộc trò chuyện, dù có thể có kèm theo khó khăn và sự lo lắng.

  Cách tốt nhất để giải quyết vấn đề này là sử dụng mô hình “can thiệp nghiện” để nói với anh ta rằng bạn yêu anh ấy và quan tâm đến anh ấy, và bạn lo lắng cho sự an toàn và hạnh phúc của anh ấy. Tiếp theo, bạn có thể nói rằng bạn nghĩ rằng anh ấy đang bị trầm cảm. Sau đó, bạn nên liệt kê các dấu hiệu của trầm cảm mà bạn đã thấy anh ta đang có. Nếu bạn lo lắng về việc tự tử, hãy nói trực tiếp. Hãy hỏi anh ta, "Có phải anh đang nghĩ về việc tự sát?"

  Hãy sẵn sàng cho bất kỳ phản ứng nào - tức giận, sợ hãi, khóc, khước từ, tuyệt vọng, và có thể là bất kỳ cảm xúc nào khác mà bạn có thể nghĩ đến. Bất kể phản ứng, hãy sẵn sàng ngồi đó và để anh ta nói nó ra. Lắng nghe với sự kiên nhẫn và lòng trắc ẩn. Hãy chắc chắn rằng anh ấy biết bạn quan tâm và muốn giúp đỡ. Đừng đi cho đến khi bạn cảm thấy chắc rằng anh ấy không gây nguy hiểm cho bản thân hoặc bất cứ ai khác.

  Quan trọng hơn hết, bạn cần phải cho anh ấy biết rằng sự giúp đỡ luôn xung quanh anh ấy, vì vậy anh ta không phải luôn luôn cảm thấy cô độc. Lý tưởng nhất là bạn sẽ chỉ cho anh ta đến một bác sĩ y khoa và một nhà tâm lý trị liệu chuyên về trầm cảm và các vấn đề liên quan.

  Nếu anh ta sẵn sàng lắng nghe, bạn có thể giáo dục anh ta về phương pháp điều trị trầm cảm, bao gồm:
  • Liệu pháp cá nhân, nơi anh có thể khám phá những suy nghĩ, cảm xúc và hành vi và phát triển kỹ năng đối phó để giúp kiểm soát trầm cảm.
  • Nhóm điều trị, với các mục tiêu cơ bản giống như liệu pháp cá nhân, nhưng với sự hỗ trợ thêm từ những người khác cũng đang chiến đấu với trầm cảm.
  • Các loại thuốc (thuốc chống trầm cảm và thuốc ổn định tâm trạng) có thể giúp một người bị trầm cảm kiểm soát các triệu chứng (dù chúng không thể “chữa trị” chứng trầm cảm).
  • Ăn uống lành mạnh, phát triển thói quen ngủ lành mạnh và tập thể dục đều đặn rất hữu ích trong việc chống trầm cảm.
 Nếu một người đàn ông trầm cảm và nói rằng anh ta muốn tự tử, bạn cần gọi ngay 115 hoặc đưa anh ta đến phòng cấp cứu gần nhất hoặc liên hệ với những nhà chuyên môn ngay lập tức.





-------------------------------------------***-------------------------------------------

Nguồn: Psychology Today: Robert Weiss

Biên dịch và Biên tập: The Uranian

Thứ Năm, 15 tháng 11, 2018

Thuốc Chống Trầm Cảm Và Tác Dụng Phụ Gây Tăng Cân

Mặc dù các nhà nghiên cứu đã chứng minh được rằng trầm cảm có thể làm tăng cân dẫn đến béo phì và béo phì đó có thể gây ra trầm cảm. Tuy nhiên, ở nghiên cứu mới này, các nhà nghiên cứu cho biết, một số loại thuốc chống trầm cảm nhất định có thể khiến bệnh nhân tăng cân.
Tác giả nghiên cứu, tiến sĩ Rafael Gafoor, thuộc trường King's College ở London, cho biết: “Rất khó để biết nguyên nhân của tăng cân, bởi vì thông thường nó có thể là triệu chứng của bệnh trầm cảm. Hoặc có thể tăng cân xảy ra sau khi bệnh nhân bắt đầu dùng thuốc chống trầm cảm, họ trở nên chán nản hơn khiến quá trình điều trị kéo dài hơn.”
Nhóm nghiên cứu tại Anh đã phân tích sự thay đổi về trọng lượng và chỉ số khối cơ thể ở 300.000 người trưởng thành trong khoảng thời gian 10 năm. Họ phát hiện ra rằng bệnh nhân dùng 12 loại thuốc chống trầm cảm được kê toa phổ biến nhất có khả năng tăng cân cao hơn so với những người không dùng thuốc.
Thuốc điều trị trầm cảm là loại thuốc phải dùng lâu dài. Thuốc điều trị gồm giai đoạn tấn công và điều trị duy trì. Thời gian điều trị tấn công thường kéo dài từ 6-12 tuần, sau đó phải tiếp tục điều trị duy trì khi những triệu chứng của trầm cảm đã hết hoàn toàn. 6 tháng là thời gian ít nhất cho mỗi đợt điều trị bệnh. Với các trường hợp trầm cảm kinh niên cần phải uống thuốc lâu hơn, tính hàng năm thậm chí có trường hợp phải dùng thuốc suốt đời. Thế nhưng người bệnh lại thường nôn nóng khi dùng thuốc, muốn dừng thuốc ngay khi các triệu chứng được cải thiện làm cho bệnh không khỏi, thậm chí còn nặng hơn.
Kết quả hình ảnh cho side effects antidepressant

Active Recovery TMS

Những loại thuốc chống trầm cảm gây tăng cân

Thuốc chống trầm cảm ba vòng
Thuốc chống trầm cảm ba vòng (Tricyclic antidepressants – TCAs) có thể gây tăng cân. Những loại thuốc này bao gồm:
-          Amitriptylin
-          Amoxapine
-          Desipramine
-          Doxepin
-          Imipramine
-          Nortriptyline
-          Protriptyline
-          Trimipramine
TCAs là một trong số các nhóm thuốc đầu tiên được chấp nhận dùng trong điều trị trầm cảm. Hiện nay, chúng hiếm khi được kê đơn bởi các phương pháp điều trị mới có ít tác dụng phụ hơn. Theo một nghiên cứu năm 1984, tăng cân là một lý do phổ biến khiến người bệnh ngừng điều trị với các thuốc chống trầm cảm thuộc nhóm này.
Tuy nhiên, TCAs có thể có hiệu quả ở những người không đáp ứng với các loại thuốc chống trầm cảm khác, và người bệnh phải chấp nhận những tác dụng phụ không mong muốn của nhóm thuốc này.
Một số thuốc nhóm ức chế monoamine oxidase (MAOIs)
Thuốc ức chế monoaminase oxidase (MAOIs) là thuốc chống trầm cảm đầu tiên được phát triển. Một số thuốc thuộc nhóm này gây tăng cân bao gồm:
-            Phenelzin
-            Isocarboxazid
-            Tranylcypromin
Do các tác dụng phụ, MAOIs thường được kê đơn khi các thuốc chống trầm cảm khác không hiệu quả. Trong số ba dược chất được liệt kê ở trên, phenelzine có nhiều khả năng dẫn đến tăng cân nhất.
Thuốc ức chế tái thu hồi serotonin có chọn lọc (SSRIs)
SSRIs là loại thuốc trị trầm cảm thông thường nhất. Sử dụng lâu dài các thuốc thuộc nhóm này sau đây có thể làm tăng cân:
-            Paroxetin
-            Sertraline
-            Fluoxetine
-            Citalopram
Mặc dù một số SSRIs liên quan đến việc giảm cân trong thời gian đầu sử dụng, nhưng việc dùng lâu dài các SSRIs có thể dẫn đến tăng cân. Điều trị kéo dài trên 6 tháng bắt đầu được gọi là sử dụng lâu dài.
Trong các SSRIs được liệt kê ở trên, paroxetine thường liên quan đến tăng cân đối với cả việc sử dụng lâu dài và ngắn hạn.
Một số thuốc chống trầm cảm không điển hình gây tăng cân khác
Mirtazapine là chất đối kháng noradrenergic, một loại thuốc chống trầm cảm không điển hình. Thuốc đã được nhận định là có nhiều khả năng gây tăng cân và tăng sự thèm ăn hơn các loại thuốc khác. Tuy nhiên, mirtazapine ít có khả năng làm cho người ta tăng cân so với TCAs.
Mirtazapine không gây ra nhiều phản ứng phụ như các thuốc chống trầm cảm khác. Các tác dụng phụ khác có thể gây ra bao gồm: Buồn nôn, nôn, rối loạn chức năng tình dục.
Không phải tất cả bệnh nhân dùng thuốc chống trầm cảm đều tăng cân. Một số người có thể bị sút cân trong khi điều trị. Các chuyên gia nhấn mạnh rằng, những lo lắng về vấn đề tăng cân sẽ không ảnh hưởng đến việc lựa chọn thuốc chống trầm cảm cho hầu hết người bệnh của các bác sỹ. Có nhiều tác dụng phụ và các yếu tố cần xem xét khác khi lựa chọn thuốc chống trầm cảm.
Nếu bạn tăng cân khi đang điều trị trầm cảm, thuốc có thể không thực sự là nguyên nhân trực tiếp gây ra sự tăng cân. Ví dụ, tâm trạng cải thiện trong khi dùng thuốc chống trầm cảm có thể làm tăng sự thèm ăn, dẫn đến tăng cân.

Giải pháp cho trầm cảm, giảm thiểu sự tăng cân trong khi điều trị

Nếu bạn đang bị trầm cảm và cân nặng đã tăng lên, có thể sau khi giảm cân, bạn sẽ có những chuyển biến tích cực trong điều trị. Nhiều bệnh nhân đã nhận thấy hiệu quả khi có chế độ ăn giảm cân và tập luyện thể thao đều đặn. Tập thể dục không chỉ cần thiết đối với việc duy trì một trái tim khỏe mạnh và chỉ số BMI bình thường, nó cũng góp phần cải thiện sức khỏe tinh thần cho bạn. Hãy bắt đầu với các môn thể thao mà bạn thích, bởi bạn có khả năng gắn bó lâu dài với chúng hơn. 
Mặc dù giảm cân và cải thiện tâm trạng là mục tiêu cuối cùng trong điều trị trầm cảm kèm theo béo phì, nhưng hãy lưu ý rằng thuốc chống trầm cảm có thể gây tăng cân và ăn kiêng không đúng cách cũng có thể làm trầm trọng thêm bệnh trầm cảm. Nên nhớ, bác sỹ sẽ là người tư vấn cho bạn chế độ ăn kiêng, tập luyện cũng như sử dụng thuốc điều trị hợp lý để vừa đạt kết quả vừa ít tác dụng phụ.
Đừng ngưng dùng thuốc điều trị trầm cảm ngay cả khi bạn tăng cân. Bạn cần trao đổi với bác sĩ để tìm ra loại thuốc chống trầm cảm giúp giảm triệu chứng bệnh và không gây ra những tác dụng phụ không mong muốn. Điều này có thể cần một chút kiên nhẫn. Bác sĩ cũng có thể cung cấp cho bạn một số lời khuyên để ngăn chặn sự tăng cân trong khi điều trị trầm cảm.


--------------------------------------------------------------------------------------
Sưu Tầm Và Tổng Hợp: The Uranian

Thứ Sáu, 20 tháng 7, 2018

Hội Chứng Tâm Thần Munchausen (Phần II)

  
 Cách điều trị Điều trị hội chứng Munchausen: Việc điều trị MSP phải bao gồm cả trẻ và người lớn. Nó có thể tốt hơn nếu cả gia đình tham gia điều trị.

  Điều trị cho trẻ

 Một khi đã xác định rằng đứa trẻ đang bị ngược đãi, chúng phải được bảo vệ. Điều này thường có nghĩa là liên hệ với Dịch vụ Bảo vệ Trẻ em và dời tất cả trẻ em khỏi sự chăm sóc của người ngược đãi. Bất kỳ bệnh tật thể chất hiện tại hoặc chấn thương phải được điều trị phù hợp. Tham vấn tâm lý cũng có thể là cần thiết.

  Điều trị đối với Người chăm sóc

 Người bị buộc tội ngược đãi trẻ em có thể sẽ phải chịu án phí hình sự. Nếu nghi ngờ MSP, trị liệu về tâm thần sẽ được khuyến cáo. Tuy nhiên, điều trị có thể khó khăn nếu người chăm sóc không thừa nhận rằng có vấn đề.
 Liệu pháp cá nhân hoặc gia đình có thể giúp tất cả các bên đương đầu với tình hình.


stayathomemum


  Các biến chứng Các biến chứng tiềm ẩn của hội chứng Munchausen  
 Trẻ em bị lạm dụng bởi những người chăm sóc với MSP có thể bị nhiều bệnh tật hoặc chấn thương, một số có thể gây nguy hiểm đến tính mạng. Họ cũng có thể phải chịu các thủ tục y tế gây đau đớn và đáng sợ. Do đó, một số trẻ có thể bị trầm cảm và lo lắng nhiều năm. Họ cũng có nguy cơ gia tăng hội chứng Munchausen.

  Nguy cơ cho người bị hội chứng Munchausen  
 Đối với người chăm sóc đang điều trị MSP, tham vấn về tâm thần thường được yêu cầu trong nhiều năm. Đó là một điều kiện rất khó khăn để điều trị hiệu quả.
 Đối với trẻ, triển vọng dài hạn sẽ phụ thuộc vào mức độ thương tích về thể chất và tâm lý của chúng. Nhiều nạn nhân của lạm dụng trẻ em có xu hướng bị trầm cảm và lo lắng trong suốt cuộc đời của họ.

  Những khám phá mới về MSP
 Dưới đây là một số khám phá mới về hội chứng MSP dựa trên những nghiên cứu khoa học vừa được cập nhật trên tạp chí khoa học Listversecủa Mỹ số ra đầu tháng 12/2017.
Trẻ mắc MSP phần lớn bị lạm dụng thể chất
- Hội chứng MSP mang đặc thù “mẹ nào con nấy”: theo một số nghiên cứu gần đây cho thấy, một đứa trẻ sống sót sau lạm dụng hay còn gọi là mắc MSP thì phụ huynh của chúng cũng mắc MSP. Lý do để giải thích cho hiện tượng này là do có yếu tố “di truyền”, trẻ dễ nhiễm bệnh từ người mẹ, khi còn nhỏ chúng thường gần gũi với người mẹ bị MSP, thì khi lớn lên chúng cũng dễ giả vờ để được nuôi dưỡng, chăm sóc. Chính xác hơn là giúp chúng nuôi dưỡng cảm xúc mong được quan tâm hơn, đây là một thói quen bất lợi, ích kỷ và nguy hiểm.
- Trẻ mắc bệnh thường do cha mẹ gây ra: nếu trẻ sinh ra trong gia đình có một phụ huynh mắc bệnh MSP, thì đứa trẻ dễ “nhiễm bệnh” trước 5 tuổi. Đơn giản, trẻ còn quá nhỏ nên không hiểu được tình trạng giả vờ gây bệnh. Khi lớn hơn thường trở thành nạn nhân của bệnh MSP, tự nguyện đứng về phía cha mẹ để lừa dối và lâu dần trở nên nhiễm bệnh thực sự. Cũng có trường hợp đứa trẻ giả vờ quá lâu và cuối cùng tin rằng mình mắc bệnh thật, điều này càng gây khó khăn cho việc khám và điều trị.
- MSP phải mất nhiều năm mới chẩn đoán được: phải nói ngay rằng MSP rất có thể khó chẩn đoán và phải mất nhiều năm. Điều đáng lo ngại hơn là trẻ bị chính cha mẹ, anh chị em ngược đãi khi mắc bệnh MSP. Trong một nghiên cứu với 83 trẻ em có cha mẹ mắc MSP thì có 15 đã chết. Nguyên nhân gây tử vong phổ biến cho những đứa trẻ này là “đột tử” còn những đứa trẻ sống sót thì phần lớn bị lạm dụng thể chất.
Do mất nhiều thời gian mới biết bệnh nên trẻ mắc bệnh MSP có tỉ lệ bị lạm dụng rất cao. Giới chuyên gia ước tính, thời gian trung bình để chẩn đoán MSP vào khoảng 4 - 5 năm. Nó có thể bắt đầu từ một lời nói dối của các bậc cha mẹ về một đứa trẻ bị sốt và từ đó phát triển thành một cái gì đó thực sự đáng sợ, đứa trẻ bị người mẹ biến thành công cụ để lừa dối ngành y.
- Y học vẫn chưa biết nguyên nhân chính xác gây MSP: mặc dù có rất nhiều giả thuyết, vì sao một bà mẹ đẻ con ra lại làm cho đứa trẻ của mình mắc bệnh hoặc nói dối bác sĩ con mình đang mang bệnh? Một số giả thiết cho rằng, nó xuất phát từ hành vi muốn “rủ lòng thương” từ những người xung quanh để nhận được sự chú ý và hỗ trợ từ bạn bè, gia đình cũng như từ chuyên gia y tế. Một trong những đặc thù của nhóm người mắc bệnh MSP là nằm lỳ, phù hợp với nhu cầu lẫn tính ích kỷ của người bệnh. Ngoài ra, còn có các khả năng khác như rối loạn chức năng não chưa được xác định. Nhiều chuyên gia trị liệu giả định, lạm dụng ở trẻ em cũng có thể là nguyên nhân dẫn đến bệnh MSP khi trưởng thành.

Healthline

MSP mang đặc thù “mẹ nào con nấy”
- Trẻ bị MSP cần được giám sát chặt chẽ: nếu bác sĩ nghi ngờ một bệnh nhân trẻ em đang bị ảnh hưởng bởi cha mẹ mắc MSP thì phải có phương án can thiệp kịp thời. Cha mẹ mắc hội chứng MSP thường giả mạo các kết quả xét nghiệm của con cái và nhiều hành vi thiếu trung thực khác. Cách tốt nhất là giám sát bằng video, đây là công cụ giúp bác sĩ có thêm bằng chứng xác thực, đặc biệt là lắp các camera giám sát bí mật. Ví dụ, camera từng ghi lại cảnh cha mẹ cố tình làm ngạt thở, ngộ độc, siết cổ, và thậm chí làm gãy xương con mình. Việc giám sát bằng video đối với một đứa trẻ đôi khi không được cha mẹ cho phép nhưng để cứu đứa trẻ trước nguy cơ bị lạm dụng thì các cơ quan chức năng, và y tế cần phối hợp vào cuộc.
- Nạn nhân không phải luôn luôn là trẻ em: MSP thường hặp ở trẻ nhỏ do cha mẹ lạm dụng gây ra. Đôi khi, căn bệnh này còn xuất hiện ở người lớn, nhất là nhóm người cao niên. Ví dụ, hai nhà khoa học người Mỹ N.J. Smith and M.H. Ardern mới đây đã phát hiện thấy một người đàn ông 69 tuổi mắc bệnh MSP được một người bạn gái 55 tuổi đưa vào bệnh viện. Chỉ trong vòng 4 năm, cặp này đã đi khám và điều trị tại 14 cơ sở y tế chuyên khoa khác nhau, được nhiều bác sĩ đa khoa như nha khoa, rối loạn tâm thần, chỉnh hình, da liễu và tiết niệu... thăm khám, nhưng cuối cùng phát hiện thấy mắc bệnh MSP, chẳng có thuốc nào chữa khỏi. Các bác sĩ từng điều trị cho người đàn ông này cho hay, bệnh nhân này đã “bóc lột” sức lao động của bạn gái, quấy rối bác sĩ và yêu cầu về nhà điều trị, nếu tiếp tục quấy rối sẽ đề nghị các cơ quan chức năng vào cuộc.


---------------------------------------------*----------------------------------------------------

Sưu Tầm và Tổng Hợp: The Uranian.

Thứ Tư, 18 tháng 7, 2018

Hội Chứng Tâm Thần Munchausen (Phần I)

  
  Hội chứng MBP (Munchausen syndrome By Proxy) được đặt theo tên gọi của bác sĩ người Đức thế kỷ 18, Karl Friedrich von Munchhausen, người tìm ra căn bệnh này. Thuật ngữ Munchausen syndrome by proxy lần đầu được sử dụng trong y học hiện đại vào năm 1977 bởi một bác sĩ người Anh Roy Meadow. Vị bác sĩ này phát hiện thấy MBP là những người giả vờ ốm để được chăm sóc y tế, họ tự làm cho bản thân mắc những triệu chứng kinh khủng bằng cách tự gây thương tích hoặc tự tiêm chất độc vào người để liên tục đến bệnh viện chữa trị. Bệnh nhân MBP có thể từng bị lạm dụng về thể chất hoặc tình dục khi còn bé, từng sống trong gia đình mà họ phải giả vờ bệnh để được yêu thương. Hiếm hoi, có trường hợp gây ra bởi một thành viên hoặc cha mẹ trong gia đình, chuyên gia y tế như y tá hoặc bác sĩ, người đã gây ra bệnh ở trẻ làm cho chúng phải nhập viện.





Source: Rare New England


  Điều những người mắc hội chứng MBP mong muốn chính là sự chú ý và chăm sóc của người thân lẫn cộng đồng. Họ thường giả vờ ốm đau, cố tình gây thương tích trên cơ thể, từ nhẹ đến nặng, đến các cơ sở y tế khác nhau để được chăm sóc. Thích gây sự chú ý của dư luận bằng cách tự gây thương tích cho bản thân. Trong hầu hết các trường hợp (85%) mắc bệnh MBP ở trẻ là do người mẹ gây ra. Bệnh nhân thường được yêu cầu điều trị tâm thần lâu dài, có dấu hiệu đi khám thường xuyên, bỏ ra rất nhiều chi phí cho xét nghiệm, điều trị mặc dù bản thân không hề có bệnh. Chính bản thân người bệnh lại không hiểu tại sao họ lại làm như vậy. Hành động này không đem lại bất cứ lợi ích cá nhân nào, ngoài việc giúp họ có thể đóng giả vai là người bị bệnh.

  Cho đến hiện nay nguyên nhân chính xác của hội chứng MBP vẫn chưa được hiểu hết, các nhà khoa học cho rằng yếu tố về sinh học và tâm lý đóng vai trò quan trọng. Tại Mỹ, Hiệp hội Chống lạm dụng trẻ em (APSAC) coi những người cố ý gây ra thương tích cho con cái là ngược đãi trẻ em, hay còn gọi là hội chứng tâm lý cha mẹ cố ý gây tổn thương cho con cái để được chú ý, chính vì vậy nhóm người này có thể bị buộc tội và kết án tù. Do chứa đựng nhiều bí ẩn nên chẩn đoán MBP rất khó khăn nhưng có thể dựa vào triệu chứng như: không phù hợp với bệnh đã được chẩn đoán. Cha mẹ hoặc người chăm sóc cảm thấy không yên tâm khi kết quả xét nghiệm không có vấn đề gì song vẫn tiếp tục tin rằng trẻ đang bị bệnh và tìm đến các bác sĩ khác. Cha mẹ hoặc người chăm sóc đòi hỏi con cần được sự can thiệp sâu hơn của y tế và chuyển con sang cơ sở y tế với nhiều trang thiết bị hiện đại hơn.

  Vì cha mẹ hoặc người chăm sóc với MBP thường tỏ ra quan tâm và chăm sóc, các bác sĩ thường không nghi ngờ có hành vi sai trái. Chẩn đoán cũng có thể là khó khăn do khả năng của người đó để thao tác bác sĩ và gây ra các triệu chứng ở trẻ. Do đó, MBP không bị phát hiện trong nhiều trường hợp. Các bác sĩ có thể bắt đầu nghi ngờ lạm dụng trẻ em khi một đứa trẻ thường xuyên bị bệnh tật và thương tích. Họ cũng có thể trở nên nghi ngờ nếu các triệu chứng của đứa trẻ tồi tệ hơn khi ở nhà một mình với người chăm sóc và cải thiện khi được chăm sóc y tế. Việc điều trị cho trẻ thường liên quan đến việc đưa trẻ ra khỏi sự chăm sóc của người ngược đãi. Kẻ ngược đãi có thể bị buộc tội hình sự, và trị liệu về tâm thần kéo dài thường được khuyến cáo.

  Các Dấu Hiệu Cảnh Báo Của Hội Chứng Munchausen.

Điều quan trọng là tìm kiếm các dấu hiệu cảnh báo ở cả trẻ và người chăm sóc.

- Các dấu hiệu cảnh báo ở trẻ bao gồm:
  •     có tiền sử thương tích nhiều lần, bệnh tật, hoặc nhập viện
  •     triệu chứng không phù hợp với bất kỳ bệnh nào
  •    triệu chứng không phù hợp với kết quả xét nghiệm
  •    các triệu chứng dường như cải thiện trong chăm sóc y tế nhưng tệ hơn tại nhà
 - Các dấu hiệu cảnh báo của MBP với người chăm sóc bao gồm:
  •    hành vi tìm kiếm sự chú ý
  •   cố gắng để xuất hiện tự hiến và tận tâm
  •   trở nên quá tham gia với các bác sĩ và nhân viên y tế
  •   từ chối rời khỏi trẻ
  •   phóng đại các triệu chứng của trẻ hoặc nói cho trẻ
  •   xuất hiện để tận hưởng môi trường bệnh viện và sự chú ý của trẻ
  Nếu bạn có ham muốn làm hại con của bạn, hãy tìm trợ giúp y tế ngay. Lạm dụng trẻ em, bất kể lý do gì, là một sự vi phạm hình sự.
  Nguyên nhân của hội chứng Munchausen.


  MBP là một tình trạng hiếm gặp và nguyên nhân chính xác của nó không được biết. Các nhà nghiên cứu lý thuyết hóa rằng cả hai yếu tố tâm lý và sinh học đều có liên quan. Nhiều người được chẩn đoán bị MBP thể chất, tình cảm, hoặc lạm dụng tình dục khi họ còn nhỏ. Một số lớn lên trong gia đình trong đó bị bệnh hoặc bị thương là một cách để nhận được tình yêu hoặc sự chăm sóc. Người ta cũng tin rằng stress có thể đóng một vai trò trong sự phát triển của MBP. Sự căng thẳng này có thể là do một sự kiện chấn thương trước đây, các vấn đề hôn nhân, hoặc có thể là một bệnh nghiêm trọng.



 Chẩn đoán hội chứng Munchausen.


  Đối với người chăm sóc được chẩn đoán bằng MBP, họ cần phải thừa nhận sự lạm dụng và đưa ra biện pháp điều trị tâm thần. Tuy nhiên, những người có MBP có xu hướng không trung thực, vì vậy chẩn đoán tình trạng này có thể rất khó khăn. Ngoài ra, với sự chú ý tập trung vào một đứa trẻ bị bệnh hoặc bị thương, các bác sĩ và thành viên gia đình sẽ dễ dàng bỏ qua khả năng MBP.


  Có thể bác sĩ sẽ cố gắng chẩn đoán đứa trẻ bị bệnh cụ thể. Nếu trẻ tiếp tục trình bày với bệnh tật hoặc thương tích không giải thích được, bác sĩ có thể bắt đầu nghi ngờ lạm dụng trẻ em hoặc MBP. Họ cũng có thể trở nên nghi ngờ nếu có bất kỳ triệu chứng đột ngột dừng lại hoặc cải thiện khi đứa trẻ không phải là với người chăm sóc của họ. Trách nhiệm đầu tiên của bác sĩ là bảo vệ đứa trẻ khỏi bị lạm dụng bằng cách báo cáo những nghi ngờ này cho các cơ quan có thẩm quyền. Trong khi chăm sóc của bác sĩ, đứa trẻ sẽ được chẩn đoán và điều trị cho bất kỳ bệnh tật, chấn thương, hoặc chấn thương cảm xúc.

...(continued)



---------------------------------------------*----------------------------------------------------


Sưu Tầm và Tổng Hợp: The Uranian.

Thứ Bảy, 14 tháng 7, 2018

Tại Sao Mất Đi Một Phụ Huynh Là Điều Tổn Thương Lớn Ở Bất Kì Lứa Tuổi Nào?


 Tôi mồ côi cha khi tôi 52 tuổi. Mặc dù với tuổi tác và kinh nghiệm chuyên môn của mình thì cái chết của cha tôi đã thay đổi tôi mãi mãi. Mọi người nói nó giống như mất một phần của chính mình, nhưng tôi cảm thấy như chiếc "mỏ neo" nhân dạng của tôi của tôi đã đứt.

 Sốc, tê liệt, phủ nhận, giận dữ, buồn bã và tuyệt vọng là những cảm xúc mà hầu hết mọi người đều phải trải qua sau khi mất đi một người thân yêu. Những cảm xúc này có thể tồn tại ở các mức độ khác nhau trong nhiều tháng sau đó. Hầu hết mọi người trải nghiệm những cảm xúc này trong các giai đoạn xảy ra không theo thứ tự cụ thể nhưng giảm dần về cường độ theo thời gian. Sự khủng hoảng của tôi dường như không hề tiến triển trong hơn sáu tháng. Không cần biết bao lâu, nhiều người xung quanh bạn có thể mất kiên nhẫn với việc bạn cảm thấy khá hơn hay không còn nhanh hơn bạn. Tuy nhiên, một số người tiếp tục trải qua những cảm xúc đau khổ trong nhiều năm sau khi mất mát, và nỗi đau đớn lâu dài đó có thể có những tác động lên nhận thức, xã hội, văn hóa và tinh thần.



Nguồn: @avogado6


  Mối liên hệ giữa nỗi đau buồn, nghiện và các bệnh tâm thần.
 Các nghiên cứu cho thấy việc mất cha mẹ có thể dẫn đến tăng nguy cơ cho các vấn đề sức khỏe tâm thần và tình cảm một cách lâu dài, chẳng hạn như trầm cảm, lo âu và lạm dụng chất. Điều này đặc biệt đúng nếu một người không nhận được sự hỗ trợ đầy đủ trong quá trình có tang chế và nếu họ còn trẻ khi cha mẹ qua đời thì cần có một người đại diện thay thế để nuôi dưỡng một cách ổn định và nhất quán. Khoảng một trong 20 trẻ em từ 15 tuổi trở xuống bị mất một hoặc cả cha mẹ trong thời thơ ấu đã tăng đáng kể nguy cơ phát triển các vấn đề sức khỏe tâm thần.
 Một yếu tố khác ảnh hưởng đến sự phát triển của các vấn đề sức khỏe tâm thần là nhận thức của họ về sự gần gũi của họ với người đã chết và sự mất mát đó đã thay đổi cuộc sống của họ bao nhiêu. Điều này không phải ý nói rằng nếu một người không trải qua cảm giác đau buồn khi bị mất cha mẹ thì họ không cảm thấy gần gũi, hòa hợp với phụ huynh hay họ nhận thức được vấn đề rõ ràng - sự mất mát đó đôi lúc vẫn có thể được cảm thấy trong lòng họ khá sâu sắc.
 Dữ liệu khảo sát về sự ảnh hưởng lâu dài của việc mất cha mẹ chỉ ra rằng việc đau buồn tang chế của con cái có thể ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần lẫn thể chất của họ, với nam giới thì có khả năng xuất hiện các vấn đề sức khỏe thể chất hơn. Dữ liệu cũng cho thấy rằng giới tính ảnh hưởng đến sự tác động bởi cái chết của cha mẹ - những đứa con trai mất cha dường như trải qua sự mất mát nhiều đau đớn hơn những đứa con gái, trong khi những phụ nữ mất mẹ thì dường như bị ảnh hưởng sâu sắc hơn những đứa con trai.



Nguồn: @avogado6

  Những can thiệp với đau buồn: Khi bạn cần trợ giúp phục hồi từ mất mát.
 Nghiên cứu về thuyết gắn bó và lý thuyết về tang chế đã dẫn đến sự phát triển các phương pháp can thiệp với đau buồn giúp mọi người hồi phục sau mất mát. Các can thiệp với đau buồn có hiệu quả nhất khi họ tập trung vào nguồn lực và năng lực tự phục hồi của cá nhân, cũng tương tự việc chăm sóc giảm nhẹ từ các nhân viên chăm sóc và các thành viên gia đình trong những tháng sau mất mát. Khi một người trải qua đau buồn phức hợp hoặc đau buồn liên tục - đau buồn kéo dài sau nhiều tháng sau cái chết thì các biện pháp can thiệp bổ sung và đánh giá với các vấn đề sức khỏe tâm thần có thể được xem xét tới.
 Bởi vì tất cả mọi người xử lý mất mát theo cách riêng và dòng thời gian cá nhân của họ, khó có thể nhận ra khi nào nếu cảm giác mất mát đó đã phát triển thành nỗi đau phức hợp. Còn được gọi là rối loạn thể tang chế phức hợp dai dẳng (Persistent Complex Bereavement Disorder), hình thức đau buồn kéo dài thường được đánh dấu bằng những cảm xúc rất nghiêm trọng, đau đớn và lâu dài khiến một người dường như không chấp nhận mất mát và tiến lên để tiếp tục cuộc sống, thậm chí nhiều tháng hoặc nhiều năm sau đó .
 Các giai đoạn phục hồi sau cái chết của người thân thường bao gồm việc cho phép bản thân bạn trải nghiệm nỗi đau của sự mất mát, dần dần nhường chỗ cho việc chấp nhận thực tế của nó và tìm cách để tiến lên phía trước. Quá trình chữa lành cũng bao gồm việc tìm kiếm nguồn lực đúng lúc để tận hưởng cuộc sống với các mối quan hệ khác. Nếu bạn tiếp tục giữ một sự tập trung cao độ vào những lời dặn dò của người đã khuất mà điều này lại gây ra đau đớn dữ dội thì việc tìm một tham vấn viên/nhà trị liệu có thể hữu ích.
 Một tham vấn viên giúp nâng đỡ khi người ta nói về nỗi buồn, sự thất vọng hay giận dữ của họ và giúp họ học cách đối phó và xử lý những cảm xúc này, một tham vấn viên gia gia đình cũng có thể hữu ích. Cái chết của một phụ huynh có thể làm sống lại những nỗi đau hoặc những oán giận trong quá khứ hoặc thay đổi mối quan hệ và cách tương tác trong gia đình. Một nhà trị liệu gia đình có thể giúp giải quyết các xung đột cũ hoặc mới và dạy các cách kiến tạo để chữa lành các mối quan hệ và giải quyết các vấn đề.
 Ngoài ra còn có các nhóm hỗ trợ về đau buồn có thể giúp mọi người cảm thấy ít bị cô lập hơn với sự mất mát của họ. Các nhóm này có thể được tìm thấy trong các cộng đồng địa phương cũng như trực tuyến thông qua các tổ chức và diễn đàn hỗ trợ đau buồn. Nỗi đau phức hợp thường dẫn đến những nỗ lực tự chữa trị bằng thuốc hoặc rượu. Trong những trường hợp này, cả hai vấn đề có thể được giải quyết đồng thời tại một trung tâm chẩn đoán và phục hồi nghiện.
 Tự chăm sóc bản thân cũng rất quan trọng sau mất mát. Bạn sẽ có thể có khả năng xử lý đau buồn của mình tốt hơn nếu bạn không giấu đi cảm xúc, suy nghĩ và ký ức của mình. Hãy tự chăm sóc bản thân bằng cách ăn uống tốt, ngủ đủ giấc, tập thể dục và dành thời gian để buồn và nghỉ ngơi. Hãy kiên nhẫn với chính mình và với những người thân yêu đang đau buồn của bạn. Đau buồn là một quá trình cá nhân, nhưng bạn không phải trải qua nó một mình.


---------------------------------------------*----------------------------------------------------

  Author: David Sack, MD, người được cấp chứng nhận về tâm thần học, nghiện. Là giám đốc y tế của Elements Behavioral Health, ông giám sát một mạng lưới các trung tâm điều trị và chẩn đoán nghiện bao gồm trung tâm Promises Treatment Center và The Right Step ở Texas.
 Translate and Edit: The Uranian.