Thứ Ba, 18 tháng 8, 2020

Cách Một Nhà Trị Liệu Thương Tiếc


Jon McNaught

 Một hôm không lâu sau lần kiểm tra sinh thiết não, tôi ghé thăm Joseph trong bệnh viện, mang theo 2 chiếc sandwich lúa mạch đen kẹp thịt bò. Tôi nghĩ rằng chúng tôi sẽ thưởng thức bữa trưa cùng nhau, hết sức có thể trong những ngày mà anh ấy vẫn lúc tỉnh lúc mê.

Tôi vào phòng; Tôi thật may mắn! Joseph đã tỉnh. Háo hức, anh ấy mở chiếc bánh sandwich ra và đặt miếng dưa muối thìa là vào giữa hai miếng bánh. Anh bóc lớp trên cùng của bánh và nghiêng đầu sang một bên để nhìn cho kĩ.

"Thịt nạc hả?" Giọng của Joseph cất lên đầy hoài nghi.

Cô y tá ngồi trong góc đã phớt lờ chúng tôi từ đầu tới giờ. Cô hạ thấp một góc của tờ The Baltimore Sun để nhìn thấy Joseph với ánh nhìn miệt thị.

Joseph cất giọng, gần giống với giọng oang oang trước đây của mình. “ Tiến sĩ Weiss, lần sau nếu cô định mang thịt bò cho tôi… làm ơn, đừng mang thịt nạc.”

Tôi cười. Đây đúng là Joseph mà tôi biết. Nhưng đó sẽ là câu nói mạch lạc cuối cùng tôi được nghe từ anh ấy. Hai tháng sau tôi sẽ dự đám tang của anh.

Tôi mở ngăn kéo tủ tài liệu của mình và truy xuất một số tập hồ sơ: những bệnh nhân đã chết trong khi tôi điều trị cho họ suốt 20 năm tôi hành nghề bác sĩ tâm thần độc lập. Tôi đang thu thập chất liệu để viết về cảm giác của các nhà trị liệu khi một bệnh nhân qua đời. Tôi thực hiện một vài quan sát.

Đầu tiên, tôi thấy rằng các hồ sơ vẫn nằm trong ngăn tủ tài liệu “đang hoạt động” của tôi. Tôi đã không chuyển chúng đến ngăn “ngưng hoạt động” - ngăn lớn hơn và chật chội hơn nhiều - ngôi nhà mà chúng nên thuộc về.

Thứ hai, tôi nhận thấy rằng tôi đã phát triển một nghi thức tưởng nhớ tự động. Bất cứ khi nào những ngón tay tôi chạm vào một trong các bìa hồ sơ của một bệnh nhân đã chết, tôi dừng lại và nhắm mắt trong giây phút ngắn ngủi nhất. Tôi tỏ lòng kính trọng thầm lặng đối với những người đã khuất.

Có gì đó ở đây. Phải chăng tôi đang cầu xin sự tha thứ vì đã phạm sai lầm? Vì chưa làm đủ? Có lẽ tôi đang tránh khỏi nỗi sợ hãi của chính mình về việc một ngày nào đó sẽ bị khóa chặt và lãng quên như thế này.

Bất kể ý nghĩa nào khác có thể có trong những nghi thức nhỏ, riêng tư này, tôi tin rằng chúng chủ yếu nói lên sự cô lập của nhà trị liệu khi bệnh nhân chết, và con người cần tạo ra nghi lễ khi cái chết xảy ra. Các nhà trị liệu thường không tham gia với những người trong cuộc sống của bệnh nhân họ. Không có ai gọi cho tôi về Joseph - không có gia đình hoặc bạn bè để chia sẻ những kỷ niệm, để cười hay để khóc.

Đừng hiểu lầm tôi; Tôi không thỉnh cầu sự thông cảm. Không thể so sánh nỗi mất mát của tôi với gia đình và bạn bè của bệnh nhân. Tuy nhiên, đây là một khía cạnh nghề nghiệp của tôi hiếm khi được thảo luận: Giống như những gì diễn ra trong phiên trị liệu đều xảy ra sau những cánh cửa đóng kín, nhà trị liệu cũng đau buồn sau khi một bệnh nhân qua đời.

Những nhà trị liệu thương tiếc một mình.

Trước khi tôi biết rằng một đám tế bào ung thư đang lén lút xâm nhập vào não của Joseph, tôi nghĩ rằng anh ấy và tôi có thể sẽ tiến triển đến một mức nào đó trong các phiên trị liệu. Joseph là một người đàn ông tài năng và mưu mẹo với vô số kế hoạch cho tương lai. Dù cho hàng loạt thứ nghiêm trọng đã xảy ra trong những năm đầu điều trị của anh như công việc kinh doanh gặp khó khăn, quan hệ gia đình căng thẳng và bạn bè xa lánh, những vấn đề này là sự tập trung cấp thiết của chúng tôi. Nhưng trong vài tháng qua, một số phần về cơ bản hơn đã được ổn thoả.

Khi còn nhỏ, anh chưa bao giờ được lắng nghe. Tất nhiên, còn nhiều điều hơn thế nữa, nhưng niềm tin của anh ấy rằng cha mẹ anh thực sự không thể nghe thấy anh là rất sâu sắc. Anh ấy đã được lắng nghe trong tiến trình trị liệu. Chí ít, anh ấy đã không phải la hét mọi lúc.

Trong phiên cuối cùng tại văn phòng của tôi, Joseph vẫn đến rất muộn như mọi khi. Anh hạ mình xuống chiếc ghế tựa bọc da, chùn bước vì đau nhức xương khớp và rên lên một tiếng hiện sinh: "Oy, gottenyu— vey ist mir."Trời ơi - khốn nạn thân tôi. Anh lau trán bằng một chiếc khăn tay cũ.

Trước kia, những tràng chửi rủa bùng nổ của anh áp đảo cả tiếng vù vù nhẹ từ máy tạo tiếng ồn trắng để lọt vào đôi tai tò mò của bệnh nhân tiếp theo trong phòng chờ. Giờ điều đó đã nhường chỗ cho những giọt nước mắt dịu dàng trong các phiên như thế này. Tuy nhiên, vẫn khó để biết chính xác anh ấy sẽ xoay chuyển cuộc đời mình như thế nào. Đống đổ nát tàn dư của rất nhiều lần anh bùng nổ cảm xúc với những người thân thiết nhất đã chặn mất con đường được tha thứ, khiến anh bị tách biệt và cô đơn.

Joseph biết rằng tôi bị kích thích khi nghe anh ấy gọi tôi là "Weiss", và anh ấy hay đùa khi rời khỏi phiên trị liệu, "Tôi sẽ nói với Rosenbaum rằng Weiss và tôi đã làm rất tốt ngày hôm nay." (Bạn của anh ấy, Rosenbaum đã giới thiệu anh với “món” trị liệu này .)

Nhưng sau đó tin dữ đột nhiên đến và anh ấy nhanh chóng sa sút. Tất cả phiên trị liệu đều ngừng lại với hy vọng về một tương lai tốt đẹp hơn - chúng tôi tin rằng sẽ có lúc nào đó như vậy. Nhưng thời gian của Joseph đã hết.

Đây là một điều thầm kín mà các nhà trị liệu hiếm khi thừa nhận: Chúng ta thường phát triển tình yêu với bệnh nhân của mình.

Tôi không nói về phản chuyển di (nghĩa là khi nhà trị liệu nảy sinh tình cảm không đúng chỗ với bệnh nhân, thứ xuất phát từ các mối quan hệ trong cuộc sống của chính nhà trị liệu). Tôi đang nói về tình yêu thực sự, thứ hiện ra sau nhiều năm trở thành người mẹ “đủ tốt” của ai đó, như cách nhà phân tâm học D. W. Winnicott gọi một phụ huynh cung cấp được môi trường thích hợp cho sự phát triển bình thường của một người.

Một nhà trị liệu có thể dành hàng trăm giờ, có khi hơn một nghìn giờ để nghe về những khát vọng cao cả nhất của bệnh nhân và những huyễn tưởng đầy thù hận, hung ác nhất của bệnh nhân. Trong thời gian này, bệnh nhân có thể chịu đựng những mất mát quá lớn, những nỗi nhục nhã không thể chịu đựng, những nỗi buồn cay đắng và những thành công vĩ đại. Bạn có thể đồng hành với bệnh nhân đi qua những đau khổ từ tuổi thiếu niên đến tuổi trưởng thành. Hoặc bạn có thể gặp họ ở tuổi trung niên, vẫn bên họ khi họ già đi và cuối cùng là chết. Bạn cộng tác với họ trong một quá trình khám phá sâu thẳm.

Rất ít cuộc gặp gỡ giữa nhà trị liệu và bệnh nhân có thể trở nên chân thật một cách sâu sắc và hình thành sự thân mật. Sự gắn bó tạo ra những cảm giác sâu sắc, một loại tình yêu đặc biệt.

Tôi đã có một tình yêu của nhà trị liệu dành cho Joseph.

Tại đám tang của Joseph, tôi ngồi ở hàng ghế sau - vị trí của nhà trị liệu - tay cầm hộp khăn giấy. Tôi đến đây không phải để được nhìn thấy hay vì lợi ích của gia đình anh. Tôi được thúc đẩy đến đây bởi mong muốn được nói lời tạm biệt với bệnh nhân của mình.

Các nhân vật quen thuộc xuất hiện trong giáo đường Do Thái, tôi nhớ ra họ từ những câu chuyện đã nghe qua nhiều năm trong các phiên trị liệu của Joseph. Bây giờ tôi nhìn thấy bạn bè, kẻ thù và gia đình của anh ấy bằng xương bằng thịt. Tôi biết nhiều về đời sống tình cảm của anh ấy hơn bất cứ ai khác ở đây. Tôi cũng biết khá nhiều về những người này (tất nhiên là theo góc nhìn của Joseph) nhiều hơn những gì họ muốn tôi biết. Đó là một lý do khác khiến tôi ngồi lại ở hàng sau cùng: Tôi không muốn gây khó chịu cho họ.

Đám tang kết thúc. Mọi người tụ tập lại để an ủi nhau. Tôi lặng lẽ rời khỏi tòa nhà tối tăm và bước ra dưới ánh nắng chói chang. Chẳng bao lâu nữa họ sẽ tập hợp lại và ăn những món mà tôi cũng thích - bánh vòng, kem phô mai, trứng luộc và cá hun khói. Trong một khoảnh khắc, tôi ước mình có thể tham gia cùng họ. Họ sẽ cười rồi khóc với những câu chuyện bất tận về Joseph. Họ sẽ bắt đầu một tiến trình tang chế bình thường - lưu giữ hình ảnh của anh trong nội tâm họ, những ký ức mà họ sẽ nuôi dưỡng và tô điểm thêm - làm dịu đi cảm giác mất mát về Joseph, và họ cũng nên làm như vậy.

Tôi rời đi với những bí mật còn nguyên vẹn của anh ấy. Những hy vọng và những giấc mơ kỳ diệu của anh ấy giờ là của tôi, để ôm ấp, để tôn vinh anh ấy cho đến khi tôi mất đi trí nhớ của chính mình, hoặc khi tôi chết.

Các chi tiết đã được thay đổi để bảo vệ quyền riêng tư của bệnh nhân.


Nguồn: opinionator.blogs.nytimes.com

Tác giả: Robin Weiss, là một bác sĩ tâm thần ở Baltimore.

Lược Dịch: The Uranian


Thứ Sáu, 7 tháng 8, 2020

Cha Mẹ Vừa Đủ Tốt Là Cha Mẹ Tốt Nhất

  Nếu chúng ta định nghĩa việc nuôi dạy con cái là việc chăm sóc đứa trẻ của một ai đó thì cha mẹ tốt nhất không phải là người nuôi dạy con cái nhiều nhất, và chắc chắn cũng không phải là người nuôi dạy con cái ít nhất, mà là người người nuôi dạy con cái vừa đủ.

 Khái niệm về cha mẹ đủ tốt của Bruno Bettelheim đến từ các tác phẩm của nhà phân tâm học và bác sĩ nhi khoa người Anh Donald Winnicott, mặc dù Winnicott chỉ quan tâm đến các bà mẹ và thuật ngữ của ông là người mẹ đủ tốt. Bettelheim không chỉ thống nhất hoá khái niệm bao gồm cả hai giới của cha mẹ, mà còn đưa nó đến theo cách có ý nghĩa với những người bình thường như tôi.

Source: Amolnaik3k Creative Commons

Bài này được lấy cảm hứng từ cuốn sách A Good Enough Parent của Bettelheim. Những ý tưởng dưới đây có thể không phù hợp hoàn toàn với ông ấy, nhưng cũng gần giống. Chúng là những ý tưởng của Bettelheim mà tôi đã chắt lọc lại. Và như tôi thấy cũng như Bettelheim đã thấy khá nhiều, cha mẹ đủ tốt có những đặc điểm sau:

 Cha mẹ đủ tốt không cố gắng trở thành cha mẹ hoàn hảo và không mong đợi sự hoàn hảo từ con cái.

 Trong lời nói đầu của cuốn sách của mình, Bettelheim đã viết: "Để có thể nuôi dạy một đứa trẻ tốt, chúng ta không nên cố gắng trở thành một người cha mẹ hoàn hảo, cũng như người ta không nên mong đợi một đứa trẻ hay trở thành một cá thể hoàn hảo. Sự hoàn hảo không nằm trong tầm tay của con người bình thường. Những nỗ lực để đạt được nó thường gây trở ngại với những phản ứng khoan dung đối với sự không hoàn hảo của người khác (điều tạo nên những mối tương quan tốt đẹp của con người), bao gồm cả con của một người nào đó."

 Một trong những vấn đề với sự kỳ vọng của sự hoàn hảo là mọi khuyết điểm, bao gồm cả những điều mà người ta không thể làm gì hơn, đều trở nên phóng đại. Nếu bạn là nhà sản xuất máy móc hoặc đồ nội thất, việc tìm kiếm sự hoàn hảo có thể là một điều tốt, bởi vì sự không hoàn hảo trong máy móc và đồ nội thất có thể được sửa chữa; nhưng phấn đấu cho sự hoàn hảo như một bậc cha mẹ không phải là một điều tốt, bởi vì sự không hoàn hảo ở con người là không thể tránh khỏi, chúng là một phần của tình trạng con người. Thật vậy, thật khó để tưởng tượng sự hoàn hảo có thể là gì ở một con người.

 Niềm tin rằng sự hoàn hảo, hoặc thậm chí một cái gì đó tiệm cận hoàn hảo trong việc nuôi dạy con cái có thể thúc đẩy xu hướng đổ lỗi. Lý do cầu toàn là thế này: Nếu có vấn đề phát sinh, thì đó phải là lỗi của ai đó. Cha mẹ nào tìm kiếm sự hoàn hảo thường đổ lỗi cho bản thân, hoặc người phối ngẫu của họ, hoặc con cái của họ khi mọi thứ không đúng. Đổ lỗi không bao giờ giúp đỡ. Sự đổ lỗi là “liều thuốc độc” của mọi gia đình nếu nó xảy ra. Dọc theo những ý này, gần cuối cuốn sách của ông, Bettelheim đã viết: "Niềm tin sai lầm ở thời hiện đại là những rắc rối không nên xảy ra và ai đó phải có lỗi khi họ gây ra điều đó; điều này gây ra sự khốn khổ không thể kể xiết trong mỗi gia đình, làm trầm trọng thêm khó khăn ban đầu và đôi khi thậm chí khiến giá trị hôn nhân và gia đình trở nên mơ hồ. Câu tục ngữ Trung Quốc cổ đại nói rằng không có gia đình nào có thể treo biển hiệu: “Không có vấn đề gì ở đây”.”

 Cha mẹ đủ tốt không lo lắng quá nhiều về sự không hoàn hảo của con. Họ cố gắng làm những điều được liệt kê dưới đây, nhưng họ nhận ra rằng họ sẽ không luôn luôn thành công trọn vẹn như họ mong muốn, và họ tha thứ cho mình vì điều đó. Cha mẹ đủ tốt nhận ra rằng ngay cả tình yêu cũng không bao giờ hoàn hảo; ít nhất thì nó luôn luôn hay thay đổi một chút. Theo cách nói của Bettelheim, thì có rất ít tình yêu nào mà hoàn toàn không có tính hai chiều… Không chỉ duy nhất là tình yêu của chúng ta dành cho con cái của mình, đôi khi sẽ có kèm chút phiền toái, chán nản và thất vọng, điều tương tự cũng như vậy với tình yêu mà con cái dành cho chúng ta. Cha mẹ đủ tốt hiểu rằng tự nhiên đã tạo ra những đứa trẻ khá kiên cường. Chúng ta sẽ không sống sót như một loài nếu điều đó không đúng. Miễn là cha mẹ không làm rối lên quá nhiều (và đôi khi ngay cả khi họ làm thế), con cái sẽ OK, và OK là đủ tốt.

 Cha mẹ đủ tốt tôn trọng con cái của họ và cố gắng hiểu chúng là ai.

 Cha mẹ đủ tốt không nghĩ mình như những nhà sản xuất, đấng sáng tạo hay người thợ mài dũa con họ. Họ thấy con cái của họ là con người hoàn chỉnh ngay bây giờ, và họ thấy công việc của họ là làm quen với những sinh vật đó. Họ hiểu rằng mối quan hệ phụ huynh-con đi cả hai chiều, nhưng không hoàn toàn. Đó là một mối quan hệ bình đẳng đôi bên theo nghĩa hai bên đều quan trọng như nhau, xứng đáng được hạnh phúc như nhau, xứng đáng có cơ hội để tạo ra mục tiêu của riêng mình và phấn đấu để đạt được chúng (miễn là phấn đấu như vậy không gây hại cho người khác). Trong một ý nghĩa khác, thì đó là một mối quan hệ bất bình đẳng. Ít nhất là khi đứa trẻ còn nhỏ, cha mẹ lớn hơn, mạnh mẽ hơn, khôn ngoan hơn (chúng ta nghĩ như vậy), giỏi lý luận hơn; và cha mẹ kiểm soát các tài nguyên mà đứa trẻ cần để tồn tại. Để làm cho mối quan hệ không cân bằng này hoạt động, cha mẹ đủ tốt cố gắng làm quen với trẻ, để hiểu được nhu cầu và mong muốn của con.

 Trẻ em nói chung là không tốt như người lớn trong việc trình bày lý do hoặc tranh luận một cách logic, vì vậy thật không công bằng khi cha mẹ mong đợi con cái luôn đưa ra những lý do chính đáng cho những gì chúng làm. Cha mẹ cố gắng tranh luận với một đứa trẻ quá thường xuyên dẫn đến việc bạo lực và làm nhục bằng lời nói, điều này làm suy yếu đi mục tiêu của việc hiểu và hỗ trợ trẻ.

 Bettelheim nói rằng, “vì khả năng tranh cãi tốt hơn của người lớn và sự ra lệnh có uy quyền hơn trong những việc xác đáng nên việc thuyết phục cha mẹ có thể được đứa trẻ trải nghiệm chỉ đơn giản là chuyện ý kiến của mình bị bác bỏ. Vì vậy, đứa trẻ cảm thấy hết lý, và việc bị làm cho hết lý là một trải nghiệm bực bội và gây mất tự tin. Đó là một chuyện khác xa với việc được thuyết phục. Nếu ít nhất một bên trong một cuộc xung đột không thể xem xét nghiêm túc quan điểm của người khác thì sẽ không có giải pháp nào thoả mãn cả hai. Vì vậy, cha mẹ đủ tốt sẽ kiểm tra động cơ của con, cố gắng hiểu suy nghĩ của con, đánh giá cao mong muốn của con để hiểu được đứa trẻ hy vọng đạt được điều gì, tại sao và như thế nào.”

 Để minh họa cho vấn đề tôn trọng và cố gắng hiểu quan điểm của trẻ con, Bettelheim đưa ra một ví dụ về một cuộc xung đột giữa cha mẹ và con cái thậm chí bây giờ còn phổ biến hơn so với thời điểm ông viết sách - một cuộc xung đột về thành tích học tập. Tôi sẽ sửa đổi ví dụ chỉ một chút để đặt trọng tâm của riêng tôi vào nó. Giả sử con bạn không làm bài tập về nhà và không vâng lời giáo viên của mình ở trường. Giáo viên gọi bạn vào một cuộc họp phụ huynh, và nếu bạn là một phụ huynh luôn hướng đến sự hoàn hảo, bạn sẽ cảm thấy xấu hổ về hành vi xấu của con bạn và cảm thấy xấu hổ khi nuôi dạy một đứa trẻ như vậy. Nếu là một người tin rằng các vấn đề đều có thể tránh được, bạn nghe những lời của giáo viên một cách chủ quan, và điều này có thể dẫn đến việc mắng nhiếc răn đe với con bạn, điều này xoá bỏ mọi nỗ lực để hiểu và giúp đỡ con cái.

 Ngược lại, nếu bạn hài lòng với việc làm cha mẹ đủ tốt và không ảo tưởng rằng sự hoàn hảo là có thể, bạn sẽ thấy vấn đề này là chuyện bình thường vốn có, một vấn đề cần cố gắng để giải quyết, không phải là một bi kịch, không phải là một cái cớ để đổ lỗi hay xấu hổ. Bước đầu tiên trong giải pháp là cố gắng hiểu vấn đề theo quan điểm của con bạn. Bởi vì bạn tôn trọng con bạn, bạn không ngay lập tức cho rằng hành vi của nó bắt nguồn từ một cái gì đó sai trái cần phải sửa chữa. Con bạn có thể không nói được rõ lý do cho hành vi của mình và thậm chí có thể không nhận thức được chúng, nhưng điều đó không có nghĩa là không có lý do hoặc lý do là những chuyện xấu. Hoàn toàn có khả năng hành vi của con bạn ở trường đại diện cho điều gì đó đáng ngưỡng mộ. Nó có thể xuất phát từ một mong muốn lành mạnh để khẳng định sự độc lập.

 Ở đây tôi nhắc lại lời của Bettelheim: “Nếu chúng ta là phụ huynh có thể đồng cảm với con thì chẳng hạn như khi đứa trẻ khẳng định bản thân bằng cách từ chối việc học, hoặc sợ rằng mình có thể trở thành một con rối nếu nó làm như những người khác muốn, thái độ đối của chúng ta với con sẽ hoàn toàn khác với khi chúng ta gán cho con sự thiếu thành tích học tập là sự lười biếng hoặc thiếu khả năng.”

 Một cái nhìn sâu sắc như thế này có thể dẫn đến một lộ trình có tính tích cực, hợp tác, xây dựng để giải quyết vấn đề, trong đó cha mẹ và con cái cùng nghĩ và nói chuyện với nhau về các giải pháp có thể. Có những cách khác mà đứa trẻ có thể chứng minh cho bản thân và những người khác rằng mình không phải là một con rối, trong khi vẫn làm bài tập ở mức vừa đủ? Hoặc liệu gia đình có thể tìm thấy một số lộ trình giáo dục thay thế cho đứa trẻ mà không làm giảm nhu cầu mạnh mẽ trong việc kiểm soát cuộc sống và học tập của chính mình? Điểm quan trọng nhất ở đây là sự tôn trọng dành cho con sẽ dẫn đến nỗ lực tìm hiểu quan điểm của con, do đó, có thể dẫn đến một giải pháp khả thi mà trẻ cảm thấy được hỗ trợ thay vì bị tiêu tan hy vọng. Ngay cả khi một giải pháp hoàn toàn thỏa đáng cho vấn đề không được tìm thấy, đứa trẻ ít nhất cũng có được từ sự hiểu rằng cha mẹ đứng về phía mình, không chống lại chính nó.

 Cha mẹ đủ tốt quan tâm đến trải nghiệm trẻ con trong thời thơ ấu hơn là tương lai của một đứa trẻ khi trở thành người lớn.

Điều này rất tự nhiên khi tất cả các bậc cha mẹ đều có một số lo ngại về tương lai của con cái họ. Tất cả chúng ta đều muốn con mình lớn lên trở thành những người trưởng thành tốt bụng, đạo đức, hạnh phúc, khỏe mạnh, có thể chuẩn bị và chăm sóc cho bản thân và những người khác. Nhưng cha mẹ đủ tốt biết rằng tương lai của đứa trẻ là trách nhiệm của con chứ không phải là cha mẹ. Đó là đứa trẻ, không phải cha mẹ - người phải xác định mục tiêu của mình trong cuộc sống và hướng đến việc đạt được chúng. Công việc của cha mẹ là đảm bảo rằng đứa trẻ có một tuổi thơ thỏa mãn.

 Cha mẹ đủ tốt nhận ra rằng điều tốt nhất họ có thể làm để giúp con cái họ hướng tới một tương lai thỏa mãn là cung cấp các điều kiện cần thiết cho một tuổi thơ thỏa mãn. Những đứa trẻ cảm thấy an toàn trong mối quan hệ với cha mẹ là những đứa trẻ cảm thấy được hỗ trợ hơn là bị kiểm soát, cảm thấy được tin tưởng và do đó sẽ trở nên đáng tin cậy, và có một môi trường đủ tốt để chơi, khám phá và học hỏi (bao gồm nhiều cơ hội để kết bạn và tương tác với những người khác ngoài gia đình), sẽ có khả năng tốt nhất để tạo lập kế hoạch cho tương lai thỏa mãn của riêng chúng. [Đây là tôi bây giờ, không phải Bettelheim nói đâu.] Cha mẹ đủ tốt hiểu được điều này, và vì vậy họ sống ở hiện tại, không phải là tương lai. Một tuổi thơ hạnh phúc (thường thì sẽ) dẫn đến tuổi trưởng thành hạnh phúc; và một tuổi thơ không hạnh phúc dẫn đến tuổi trưởng thành không hạnh phúc.

 Cha mẹ đủ tốt cung cấp sự giúp đỡ mà con cái họ cần và muốn, nhưng không nhiều hơn những thứ chúng cần hoặc muốn.

 [Đây là quan sát xuất phát từ tôi nhiều nhất, dĩ nhiên tôi cũng nghĩ rằng Bettelheim sẽ đồng ý.] Tạo hoá cho trẻ con đến với thế giới này để chúng làm hết sức có thể chúng muốn. Đó là cách chúng hoạt động liên tục tiến tới tuổi trưởng thành. Cha mẹ đủ tốt hiểu điều này bằng trực giác, vì vậy họ cho phép con cái họ tự do chấp nhận rủi ro và tự làm những gì chúng có thể. Cha mẹ đủ tốt cho phép con cái họ phạm sai lầm và thất bại bởi vì chúng biết rằng sai lầm và thất bại là sự hợp thành không thể tránh khỏi của việc học hỏi. Khi phụ huynh cung cấp sự trợ giúp, họ làm như vậy bằng cách bổ sung và hỗ trợ những nỗ lực riêng của đứa trẻ thay vì hoàn thành nhiệm vụ. Mục tiêu là cho phép đứa trẻ tự làm nhiều hơn, khích lệ sự phấn đấu độc lập của con trẻ mà không gây cản trở.

 Các công cụ chính của việc nuôi dạy con đủ tốt là sự phản ánh có ý thức, sự trưởng thành và sự đồng cảm.

 Cha mẹ đủ tốt không mù quáng nghe theo lời khuyên của các “chiên gia” hay các mốt nuôi dạy con cái mới nhất và họ không quá quan tâm đến cách người khác đánh giá việc nuôi dạy con cái của họ. Họ có nhiều khả năng tìm kiếm lời khuyên từ bạn bè và người thân, những người hiểu rõ họ và con của họ hơn là từ các chuyên gia ngoài kia. Mục đích của họ là giúp con họ đạt được những gì trẻ muốn và cần đạt được, không phải để chứng minh với thế giới rằng chúng là cha mẹ tuyệt vời hoặc để bảo vệ bản thân khỏi những lời chỉ trích. Để biết cách hỗ trợ tốt nhất cho con cái, cha mẹ đủ tốt để cố gắng hiểu chúng và công cụ chính để làm điều đó là sự phản ánh có ý thức, sự trưởng thành (bao gồm sự kiên nhẫn) và sự đồng cảm.

 Như đã lưu ý trước đó, mối quan hệ phụ huynh-con cái ở một mức nào đó là bình đẳng và những mức khác thì không. Cha mẹ hiểu biết nhiều hơn, có khả năng tìm ra mọi thứ, trưởng thành hơn con. Trẻ em, những đứa trẻ vốn dĩ đã cảm thấy không an toàn, sẽ cảm thấy khó hơn nếu như chúng nhận thấy rằng chính cha mẹ của mình không đủ năng lực để đối phó với các vấn đề của cuộc sống. Chuyện trưởng thành rất quan trọng. Cha mẹ đủ tốt biết rằng họ phải đi hơn nửa đường để làm cho mối quan hệ cha mẹ và con cái hoạt động. Đó là phần việc của cha mẹ để hiểu đứa trẻ nhưng không nhất thiết là phần việc của con để hiểu cha mẹ. Tất cả các bậc cha mẹ đã từng là con cái, vì vậy, nhớ lại thời thơ ấu của chính mình có thể giúp cha mẹ hiểu con cái họ; nhưng trẻ em chưa bao giờ làm cha mẹ.

 Đây là những lời của Bettelheim: “Hồi ức về thời thơ ấu của chúng ta sẽ khiến chúng ta kiên nhẫn và thấu hiểu; và khi chúng ta nhận ra rằng dù cho đứa con của chúng ta rất ương bướng, bây giờ nó đang vật vã thì cũng như chúng ta từng vật vã ngày xưa vậy, tình yêu của chúng ta dành cho đứa con của mình cũng là tình yêu dành cho người soi rọi chính bản thân mình ngày xưa. Cha mẹ đủ tốt nỗ lực đánh giá và phản hồi các vấn đề cả từ góc độ người lớn và từ một góc độ khá khác biệt của con trẻ sẽ có những hành động dựa trên sự hợp nhất từ hai phía trong khi vẫn chấp nhận rằng vì sự non nớt của nó nên nó chỉ có thể hiểu vấn đề chỉ từ quan điểm của mình. Vì vậy, cha mẹ đủ tốt bên cạnh việc bị thuyết phục rằng (bất cứ điều gì con họ làm tại thời điểm này là bởi vì nó tin rằng đây là điều tốt nhất nó có thể làm) cũng sẽ tự hỏi: 'Điều gì trên thế giới sẽ khiến tôi hành động như con tôi đang làm tại thời điểm này. Và nếu tôi cảm thấy bị buộc phải hành động theo cách này, điều gì sẽ khiến tôi cảm thấy tốt hơn về chuyện đó?”

 Tôi không nghĩ rằng Bettelheim hoàn toàn chính xác trong tuyên bố của mình rằng trẻ em chỉ có thể hiểu theo quan điểm riêng của chúng. Tôi đã thấy ngay cả những đứa trẻ dường như có những sự nội thị đáng chú ý về hoạt động của tâm trí cha mẹ chúng. Nhưng tôi chắc chắn đồng ý với ông rằng việc hiểu được quan điểm người khác phải là trách nhiệm của cha mẹ nhiều hơn so với của  con.

 Sự thấu cảm là chìa khóa cho bất kỳ mối quan hệ thành công nào, và cha mẹ đủ tốt biết rằng họ phải nhỉnh hơn trong sự thấu cảm bởi vì họ dễ dàng đi vào tâm trí trẻ con hơn việc đứa trẻ có thể đi vào tâm trí cha mẹ. Một lần nữa, theo cách nói của Bettelheim: "Sự thấu cảm, rất quan trọng đối với sự hiểu biết của người lớn về trẻ em, đòi hỏi người ta phải xem người khác ngang hàng - không liên quan đến kiến ​​thức, trí thông minh hoặc kinh nghiệm và chắc chắn không phải là sự trưởng thành mà là về cảm xúc, thứ thúc đẩy tất cả chúng ta. Sự hiểu biết của cha mẹ về cảm giác của con cái và sự tôn trọng của cha mẹ đối với những cảm giác đó chính là bước đầu tiên giúp ích."

 Cha mẹ đủ tốt tự tin rằng việc nuôi dạy con đủ tốt của họ là “đủ tốt”.

 Những phụ huynh cảm thấy tự tin về việc nuôi dạy con cái của họ sẽ bình tĩnh và kiên nhẫn hơn, ít lo lắng hơn trong việc nuôi dạy, và do đó sẽ cung cấp một nguồn lực lớn hơn về sự an toàn cho con của họ so với những bậc cha mẹ không tự tin. Trong sách của Bettelheim, sự lung lay về an toàn của trẻ con rất phụ thuộc, như chính nó cũng biết không phải ở khả năng tự bảo vệ của nó mà là sự hỗ trợ của người khác. Điều đó được vay mượn từ sự an toàn của cha mẹ nó. Vì vậy, là một phụ huynh đủ tốt đòi hỏi bản thân chúng ta phải tin rằng đây là những gì chúng ta đang có.

 Gần cuối cuốn sách, Bettelheim cho biết thêm: “Dẫu chúng ta không hoàn hảo, chúng ta thực sự là những bậc cha mẹ đủ tốt nếu hầu hết thời gian chúng ta yêu thương con cái và làm hết sức mình để chúng cảm thấy ổn. Những tri thức này, hoặc sự thật, có thể bảo vệ chúng ta chống lại sự dại dột khi nghĩ rằng mọi thứ trẻ em làm chỉ để “cự” lại chúng ta. Phần lớn những gì đứa trẻ làm chủ yếu liên quan đến bản thân nó và chỉ gián tiếp hoặc ngoại vi với chúng ta và những gì chúng ta làm. Điểm cuối cùng này là về giá trị của sự khiêm nhường. Cha mẹ đủ tốt nhận ra rằng vũ trụ của trẻ không quay xung quanh cha mẹ. Những hành động của con cái chúng ta không được thúc đẩy chủ yếu bởi mong muốn làm hài lòng chúng ta hoặc làm tổn thương chúng ta mà bởi những động cơ buộc phải làm với những nỗ lực để tìm vị trí của riêng chúng trong thế giới này. Nếu chúng ta là cha mẹ đủ tốt, chúng ta không có nhiều công trạng, cũng không có nhiều trách nhiệm cho hành động của con cái chúng ta; chúng ta chỉ tập trung vào sự thấu hiểu và giúp đỡ khi chúng cần giúp đỡ.”

Nguồn: Psychology Today

Lược dịch: The Uranian

Tác giả: Peter Gray, Tiến sĩ, là giáo sư nghiên cứu tại Đại học Boston, tác giả của cuốn Free to Learn và sách giáo khoa Tâm lý học (nay là phiên bản thứ 8), chủ tịch của Liên minh Giáo dục Tự định hướng, và là thành viên sáng lập của Let Grow. Ông đã thực hiện và công bố nghiên cứu về thần kinh học, tâm lý học phát triển, giáo dục và nhân chủng học.


Thứ Bảy, 31 tháng 8, 2019

Các Bác Sĩ Tâm Thần Sẽ Đi Về Đâu Khi Bệnh Nhân Của Họ Tự Sát


Một y tá cho tôi xem bài báo ngay khi tôi vừa bước vào. Tôi nhìn thấy một gương mặt cười của chàng trai trẻ mà tôi đã chăm sóc từ khi anh ấy còn là một cậu thiếu niên. Sau vài lần tự hoại và đe doạ tự sát, cậu được nhận vào bệnh viện Connecticut, nơi tôi đang làm việc với vai trò là bác sĩ tâm thần nhi và thanh thiếu niên. Tôi ước tôi được nhìn thấy nụ cười đó suốt quá trình điều trị. Nụ cười đó trông thật chân thật. Nhưng nụ cười trên bài báo là một cáo phó.

Tôi như vụn vỡ. Tôi chẳng biết làm gì với cảm giác của mình và thấy nhục nhã nếu để người ta biết. Lượng giá tự sát là một phần cơ bản trong chương trình đào tạo tâm thần của tôi, nhưng làm gì khi tự sát chưa diễn ra. Điều này đúng cho rất nhiều chương trình đào tạo tâm thần dọc theo cả nước. Điều cần nhấn mạnh ở đây là họ coi trọng việc phòng ngừa tự sát nhưng không hề có đủ sự tập trung trong việc chuẩn bị cho những bác sĩ thực tập về chuyện mất mát bệnh nhân bởi tự sát hay việc làm sao để đương đầu với kết quả sau đó.
Cái chết của chàng trai trẻ này đặc biệt đau lòng với tôi vì anh ấy không phải là người hoàn toàn xa lạ. Lần nhập viện cuối cùng của anh là hai tháng trước khi anh chết là lần đầu tiên tôi không chăm sóc cho anh. Chỉ trước lần nhập viện đó, quý bà dễ thương đã sửa quần áo cho tôi đề cập rằng cháu bà đã nhập viện được vài lần rồi. Bà ấy biết tôi là bác sĩ tâm thần và bắt đầu kể về hành trình gian khổ mà gia đình bà phải đối mặt vì sự chiến đấu với vấn đề sức khoẻ tâm thần của cháu mình. Sau đó bà ấy nhắc tên anh.
Trong lĩnh vực của tôi - cái dựa vào sự tin tưởng tuyệt đối của bệnh nhân, điều này khá khó khi mà vừa điều trị cho ai đó và cũng phải có mối quan hệ tách bạch với người thân của họ. Tôi cảm thấy tôi không thể giả vờ rằng tôi không biết đứa cháu. Tôi biết bà ấy hơn 10 năm và chúng tôi cũng chia sẻ nhiều chuyện cá nhân với nhau. Nhưng tôi cũng biết rằng tôi phải bảo vệ quyền bảo mật của bệnh nhân nên phải giữ im lặng về những nỗi sợ, những hy vọng và những giấc mơ chưa hiện thực hoá được của người cháu. Đối mặt với tình thế đạo đức nghề nghiệp khó xử này, tôi đã biện hộ cho bản thân mình bằng việc chăm sóc cho chàng trai trẻ trong lần tiếp theo anh ta nhập viện.
Giờ thì anh ấy tự sát rồi. Chỉ vài tháng sau khi tôi thừa nhận với chính mình rằng  những bí mật mình cất giữ phản ánh ý thức của tôi về việc mình đã thất bại như thế nào với người bà đó - và tôi cũng thiếu cả dũng khí để chạm mặt với bà ấy lần nữa.
Tôi bị ám ảnh bởi cuộc trò chuyện với cháu của bà suốt lần nhập viện cuối mà tôi chịu trách nhiệm theo sát anh ta. Anh ấy nói với tôi rằng anh cảm thấy hy vọng về cuộc sống trong khi ở bệnh viện nhưng thế giới ngoài kia thì thật khó lường. Đâu đó trong tâm trí bất định của tôi tôi tin rằng đã làm anh ta thất vọng - Tôi thất bại với việc làm cho thế giới này lường trước được. Nếu đó là thứ đảm bảo để anh còn sống tới ngày hôm nay, tôi lẽ ra nên tìm cách để làm được điều đó.
Những đánh giá trong nội bộ bệnh viện nếu được phân tích và tách bạch khỏi những tác động về mặt cảm xúc sâu sắc được cảm nhận bởi những bác sĩ và các công nhân viên. Với cương vị là một bác sĩ tôi cảm thấy bị ép buộc phải duy trì và thể hiện một sự trắc ẩn có lý do,  việc chấp nhận mất mát bệnh nhân như một phương diện khác trong nghề nghiệp của tôi. Và lẽ đương nhiên như những con người khác, chuyện tự sát của bệnh nhân để lại cho tôi cảm giác thiếu thốn.
Một người bạn thân hồi đại học, Tiến sĩ Heather Paxton đang làm việc tại một bệnh viện tâm thần bậc nhất bang Connecticut, nơi mà tôi cũng từng làm việc. Cô ấy miêu tả thế này: “Bạn sẽ không hề nhận ra rằng phóng xạ tác động nhiều như thế nào với bạn mãi cho đến sau này. Chuyện bệnh nhân tử vong do tự sát rất khó chịu, nhưng một số có thể thực sự gây chấn thương tâm lý.
Trong những ca tự sát mà Paxton đã làm việc trong suốt quá trình thực hành, một ca rất khó khăn liên quan tới một bệnh nhân trẻ muốn tự sát trong thời gian ngắn sau khi xuất viện. Cô ấy nhận ra mình có những cơn ác mộng thường xuyên và những ký ức không mong đợi. Cô nhận ra những điều này như là những dấu hiệu của stress sau sang chấn tạm thời.
Paxton cho rằng cô ấy may mắn. Những đồng nghiệp hiểu chuyện mà cô ấy đang trải qua, những thành viên của đội phản hồi khủng hoảng trong bệnh viện mời những bác sĩ lẫn điều dưỡng - những người từng làm việc với bệnh nhân đó để gặp mặt và nói về những chuyện đã xảy ra.
“Họ tạo ra một không gian và thừa nhận rằng bệnh nhân tự sát rất dễ gây căng thẳng. Nó là một trải nghiệm khó khăn thậm chí cho những người chăm sóc người khác.”
Tôi đã va vào Paxton ngay khi tôi vừa bước ra khỏi đơn vị nội trú sau khi nhìn thấy tin cáo phó. “Tôi rất lấy làm tiếc, tôi đã nghe về bệnh nhân của bạn,” cô ấy nói với tôi và chạm vào cánh tay tôi “tôi biết điều đó như thế nào”.  Đó là tất cả những gì cô ấy nói. Nhưng một vài từ này cũng có ý nghĩa rất nhiều. Tôi đã không cô độc.
Bệnh nhân tự sát được mô tả như một sự may rủi nghề nghiệp trong ngành tâm thần. Vào năm 2009, Bengi Melton và các đồng nghiệp từ trường Cao đẳng dược Baylor đã báo cáo trong Academic Psychiatry rằng chỉ một phần năm trưởng khoa tâm thần nội trú cảm thấy sẵn sàng đối mặt với hậu quả của một vụ tự tử của bệnh nhân. Như Paxton giải thích với tôi, hậu quả trở nên khó khăn hơn khi những bác sĩ tâm thần không được đào tạo về những gì phải mong đợi. 
Sự thiếu sót trong đào tạo có lẽ ngày càng rõ ràng hơn khi các bác sĩ tâm thần thấy mình đang ở trên tuyến đầu của một cuộc khủng hoảng sức khỏe tâm thần đang gia tăng. Theo Trung tâm kiểm soát dịch bệnh, tự tử hiện là nguyên nhân gây tử vong đứng hàng thứ hai ở những người trong độ tuổi từ 10 đến 34. Đáng báo động hơn nữa là tỷ lệ tự tử ở Mỹ tăng 28% từ năm 1999 đến năm 2006.
Tuy nhiên cũng có một vài trung tâm y tế đang bước từng bước để tạo ra những đội ngũ hỗ trợ cho các nhà lâm sàng của họ.
Một ví dụ là Bệnh viện Nhi đồng Boston. Vào năm 2003, họ đã quyết định thành lập một nhóm để can thiệp bất cứ khi nào có tình huống khó khăn liên quan đến bệnh nhân ảnh hưởng đến bất kỳ bác sĩ lâm sàng nào của bệnh viện. Lauren Coyne, một nhân viên xã hội và y tá trong Văn phòng hỗ trợ lâm sàng (OCS) của bệnh viện, đã đóng một vai trò quan trọng trong chương trình.
Tự sát khác với các trường hợp tử vong khác của bệnh nhân, Coyne lưu ý. Trong các bệnh mãn tính, các bác sĩ và gia đình thường có thể chuẩn bị cho cái chết của bệnh nhân. Không phải như vậy với tự tử, trong đó sự đột ngột mất mát có thể làm lung lay nền tảng của bất kỳ bác sĩ lâm sàng nào, cho dù là mới vào nghề hay kinh nghiệm sâu sắc. Văn phòng của cô phát hiện tới 300 trường hợp mới mỗi năm, Coyne cho biết các câu trả lời bắt đầu bằng nỗi buồn sâu sắc nhưng thường bao gồm một mối lo ngại ám ảnh rằng mọi việc lẽ ra nên được thực hiện khác hoặc tốt hơn để cứu bệnh nhân.
Điều quan trọng là đau buồn và mất mát có một vị trí trong cuộc đời của một bác sĩ tâm thần, giống như bất kỳ bác sĩ nào khác. Chúng tôi cũng đối phó với bệnh nan y. Tuy nhiên, tôi ước ai đó đã chuẩn bị cho tôi trong suốt những năm được đào tạo về cái chết của bệnh nhân. Tự tử có thể phòng ngừa được trong nhiều trường hợp, nhưng không phải tất cả, và khi chúng ta chăm sóc những bệnh nhân bị bệnh nặng thì điều này có thể xảy ra; nó không phải là một thất bại.
Các cơ quan cần phải đảm bảo rằng tác động cảm xúc sâu sắc mà các bác sĩ tâm thần cảm nhận phải được thừa nhận và cung cấp hỗ trợ phù hợp. Kiểm tra hình thức và các cuộc phỏng vấn bệnh viện thường không đề cập đến cảm giác mất mát hay đau buồn, mà thay vào đó tập trung vào việc xem xét phân tích các quyết định của nhóm lâm sàng. Sự chăm sóc bệnh nhân tâm thần không xảy ra trong sự cô lập chỉ trong văn phòng bác sĩ. Có nhiều hệ thống liên quan xác định hướng chăm sóc. Gánh nặng trách nhiệm không nên chỉ đặt lên một vài người. Mất mát này phải thuộc sở hữu của tất cả mọi người, những người đến với nhau để hỗ trợ lẫn nhau thì sau đó, đám mây mù xấu hổ và tội lỗi mới có thể được dỡ bỏ.
Tôi tự hỏi liệu tôi lẽ ra hành động khác đi với các nhân viên và bản thân mình không nếu một đội tương tự như của Coyne hỗ trợ chúng tôi dù biết rằng có những người hiểu và không đổ lỗi. Có lẽ tôi đã nhìn vào bức tranh trong cáo phó lần thứ hai. Và tôi hy vọng rằng lẽ ra tôi nên gom đủ can đảm để nói với bà của cậu ta rằng tôi cảm thấy rất tiếc như thế nào.


Zheala Qayyum là một bác sĩ tâm thần trẻ em và vị thành niên và là giám đốc đào tạo liên kết cho chương trình nghiên cứu tâm thần học trẻ em và vị thành niên tại Bệnh viện nhi đồng Boston. Cô là một giảng viên tại Trường Y Harvard và Trường Y Yale.

Lược dịch: The Uranian


Thứ Hai, 29 tháng 7, 2019

Sự Hứa Hẹn Vô Nghĩa Của Chuyện Phòng Ngừa Tự Sát







Nếu tự sát có thể ngăn ngừa được vậy tại sao rất nhiều người đang chết vì nó? Tự sát là nguyên nhân thứ 10 dẫn tới cái chết ở Mĩ và tỷ lệ tự sát vẫn cứ tiếp tục tăng.
Một vài năm trước, tôi điều trị cho một bệnh nhân là một tiếp viên hàng không, em trai của cô đem cô tới đơn vị can thiệp khủng hoảng tâm thần sau khi nhận thấy hành vi bất thường của cô tại đám cưới. Sau buổi lễ, cô ấy âm thầm để lại quà và thư chúc mừng cho những thành viên trong gia đình. Khi em trai cô chở cô về nhà, anh phát hiện ra rất nhiều đồ nội thất và tranh vẽ biến mất, trong phòng tắm anh phát hiện ra ba hộp thuốc ngủ chưa mở.
Anh đối chất với cô và cô thừa nhận rằng cô đã quyên góp tài sản cho quỹ từ thiện. Cô cũng rút hết tiền hưu trong tài khoản và dùng số tiền đó trả cho tiền thế chấp căn nhà, khoản vay mua xe và tất cả những hoá đơn. 
Khi tôi nói chuyện với cô, cô nói rằng đã hơn 4 tháng mà làm việc gì cũng không thấy vui - ăn, dọn dẹp nhà cửa, nói chuyện với hàng xóm - với những nỗ lực khủng khiếp. Cô cảm thấy kiệt sức bởi việc phải sống mỗi ngày và suy nghĩ phải chống chọi lại điều này trong nhiều năm sắp tới là sự giày vò mà cô không chịu đựng được
Sau khi lượng giá cô, tôi bảo cô rằng tôi nghĩ cô đã trải qua một pha trong rối loạn lưỡng cực và cô cần cam kết đến bệnh viện khi bắt đầu điều trị. Cô nhún vai và quăng cho tôi sự phản hồi khó chịu nhất: “Tôi không quan tâm.”
Một trong những lý do tôi nhớ người phụ nữ này rõ là vì vậy, trong tất cả những bệnh nhân mà tôi từng lượng giá nguy cơ tự sát, cô ấy là một trường hợp bất thường. Cô có sự cân nhắc và duy trì suy nghĩ kết thúc đời mình trong thời gian dài. May thay, điều đó khiến cô bị phát hiện ra và gia đình đã có thể can thiệp kịp thời. Cô đáp ứng tốt với lithium, một trong hai loại thuốc tâm thần được chứng minh giảm thiểu tự sát (loại còn lại là chống loạn thần, clozapine). Cơn trầm cảm của cô thuyên giảm chậm rãi và cô bắt đầu nhớ ra những thứ khiến đời cô đáng để sống.
Cô ấy chính xác là kiểu người muốn tự sát mà bác sĩ tâm thần có thể giúp - một người có bệnh tinh thần không chẩn đoán được nhưng chữa được và chỉ cần được giữ an toàn đến khi thuốc có tác dụng.
Hầu hết những bệnh nhân tự sát tôi gặp đều đi theo một kiểu khác, giống như trường hợp ở viện nội trú gần đây. Một phụ nữ trung niên không có tiền sử tâm thần được đem tới sau khi dùng quá liều giảm đau. Cô ấy bị mất nhà gần đây. Sau bảy năm yên bình thì cô ấy lại suy sụp và sử dụng methamphetamine để giữ mình thức suốt đêm sau khi bị tấn công tình dục trong công viên, nơi cô ấy ngủ hàng đêm. Cô ấy không có gia đình hỗ trợ, không bao hiểm, không tiền và không được giáo dục đến cấp phổ thông.
Cô không thấy được lối thoát nào cho cuộc đời mình. Vì vậy cô đi đến tiệm thuốc và chôm lấy vài chai thuốc chống viêm và chạy vào nhà vệ sinh nơi cô ấy nuốt hết tất cả những viên thuốc mà sức mình có thể trước khi có người bước vào.
Tôi hỏi viện trưởng làm sao để giúp cô trong khi cô còn ở trong bệnh viện. Sau một hồi, ông ấy đề nghị một cách nhẹ nhàng “Cho cổ bắt đầu với thuốc chống trầm cảm?”
Tôi có thể nói với ổng rằng ổng thừa biết điều đó nghe lố lăng cỡ nào.
Là bác sĩ, chúng tôi muốn giúp mọi người và điều đó có thể khó thừa nhận đối với chúng tôi khi những công cụ hỗ trợ có giới hạn. Thuốc chống trầm cảm dường như là giải pháp hiển nhiên, nhưng chỉ khoảng 40% đến 60% bệnh nhân sử dụng chúng cảm thấy khá hơn. Và trong khi gần như 1 trên 10 người Mĩ đều sử dụng thuốc chống trầm cảm, có rất ít bằng chứng thuyết phục chứng minh rằng chúng giúp giảm tự sát. Điều này  là bởi vì có rất nhiều khó khăn dẫn tới chuyện tự sát mà không thể giúp được với việc thêm một chút serotonin. Thuốc chống trầm cảm không thể cung cấp công việc làm hoặc nhà ở, hàn gắn lại những mối quan hệ với thành viên trong gia đình hoặc đem lại sự yên bình.
Phòng ngừa tự sát cũng khó vì những thành viên gia đình hiếm khi biết được người mà họ yêu thương sắp cố gắng tự sát, thường thì người đó cũng không biết về chính bản thân họ. Kế hoạch kĩ càng của cô tiếp viên hàng không là bất thường, phổ biến nhiều hơn là sự chộp bất cứ gì vào tay để tự kết liễu mình trong khoảnh khắc tuyệt vọng.
Theo như một nghiên cứu năm 2016, hầu như một nửa số người cố gắng tự sát đều thực hiện một cách xung động. Một nghiên cứu năm 2001 đã phỏng vấn những người sống sót sau khi thử chạm mặt cái chết (được xác định với bất kì sự thử nào chí mạng mà không hề có sự phòng ngừa y tế hoặc bất kì sự thử nào mà dùng súng) đã nhận thấy đại khái ¼ người có cân nhắc hành động của mình trong khoảng ít hơn 5 phút. Điều này không cho thêm ai nhiều thời gian để để ý điều gì đó sai sai và nhảy vào cuộc hết.
Tuy nhiên những người cung cấp dịch vụ sức khoẻ tâm thần nhớ mãi chuyện kể rằng việc tự sát có thể phòng ngừa được nếu bệnh nhân và người trong gia đình chỉ cần làm theo những bước đúng. Những chiến dịch phòng ngừa tự sát khuyến khích mọi người vượt qua những định kiến và nói với ai đó hoặc gọi cho đường dây nóng. Điều muốn nói ở đây là sự giúp đỡ luôn có, hãy cứ đợi để được phát hiện ra.

Nhưng nó không hề dễ dàng như vậy. Những viện tâm thần ngoại trú tốt rất khó để tìm, khó để vào và khó đủ tiền để trả. Viện nội trú thì dành cho những ca nghiêm trọng và thậm chí với bệnh nhân còn không đủ giường bệnh. Những sự khởi đầu như các đường dây nóng can thiệp khủng hoảng và các chiến dịch chống định kiến tập trung vào việc mở ra cánh cửa chính đến những dịch vụ chăm sóc sức khoẻ tâm thần, nhưng mấy thứ này giống như xây thêm cửa cho một toà nhà vốn dĩ đã trống không.

Nhưng vẫn có những thứ chúng ta có thể làm để ngăn chặn tự sát. Một trong vài chiến lược “thử và đúng” đang làm giảm sự tiếp cận của mọi người đến những thứ gây chết người, vì vậy miễn là họ không chìm đắm vào sự vô vọng thì bất cứ sự thử nào cũng hầu như không nguy hiểm đến tính mạng. Nếu bệnh nhân đầu tiên của tôi không có khẩu súng trong nhà thì cô ấy lẽ ra không chết . Nếu bệnh nhân thứ hai của tôi túm lấy acetaminophen thay vì ibuprofen thì có lẽ cô ấy cũng không chết. Ngăn chặn cái chết trong khoảnh khắc tuyệt vọng đầy xung động đó là mấu chốt cho việc giảm thiểu tỉ lệ tự sát. Ngược lại với quan điểm phổ biến đó, chỉ có một số nhỏ người sống sót sau một lần cố gắng tự sát nghiêm trọng lại tiếp tục và chết trong lần cố gắng khác.
Sự quyết định dừng sống là một thứ mà người ta chọn bởi rất nhiều lý do, một vài người thì phải qua nhiều tháng, nhưng rất nhiều người chỉ vài phút. Những người này sẽ không ngăn lại được bởi hệ thống chăm sóc sức khoẻ tâm thần. Chúng tôi dĩ nhiên cần nhiều dịch vụ tâm thần hơn và nhiều nghiên cứu hơn để tốt hơn, ra tay điều trị nhanh hơn cho những người trầm cảm nặng và có ý định tự sát, nhưng điều đó sẽ không bao giờ đủ.
Chúng ta cần nhấn mạnh cái nguyên nhân cốt lõi của vấn đề tự sát của nước ta - nghèo đói, vô gia cư và những trải nghiệm biến cố kèm theo, tội phạm và ma tuý. Điều đó nghĩa là điều trị nghiện chất, tham vấn gia đình, nguồn nhà ở cho người thu nhập thấp, huấn luyện nghề nghiệp và tâm lý trị liệu cá nhân sẽ tốt hơn. Và với những người vẫn có nguy cơ trượt qua tất cả những điểm chốt này, chúng ta cần đảm bảo rằng họ không có sự tiếp cận với súng hay những thuốc gây chết người.
Chúng ta bỏ qua tất cả những điều này và vẫn tiếp tục kể nhau nghe rằng ta có giải pháp đơn giản trong tay, gia đình của những nạn nhân tự sát sẽ bị bỏ lại với câu hỏi là họ đã làm gì sai.




By Amy Barnhorst
Tiến sĩ Barnhorst là một bác sĩ tâm thần.
Lược dịch: The Uranian.



Thứ Hai, 17 tháng 6, 2019

Những Gì Mọi Người Dùng Thuốc Chống Trầm Cảm Và Thuốc Tâm Thần Muốn Bạn Biết


 Một thành viên trong gia đình nhận thấy bạn đang dùng thuốc chống trầm cảm và gợi ý rằng nếu bạn cười nhiều hơn một chút, bạn sẽ có thể đánh bại chứng trầm cảm đó mà không cần thuốc. Những người bạn hoặc gia đình có ý tốt khác thì đừng ngần ngại chia sẻ ý kiến của họ - những thứ thường dựa trên những lầm tưởng hoặc thông tin sai lệch về thuốc tâm thần với bạn hoặc bất kỳ ai khác. Đó là miệt thị thuốc (pill shaming) và nó chỉ đơn giản là một cách khác để kỳ thị bệnh tâm thần.

Cứ một trong sáu người Mỹ dùng một số loại thuốc tâm thần, chủ yếu là thuốc chống trầm cảm. Nhiều người có đơn thuốc cho bệnh tâm thần cũng sử dụng liệu pháp nói chuyện, chánh niệm hoặc tập thể dục để kiểm soát các triệu chứng của họ. Nhưng đó là những viên thuốc theo toa thường đem lại những nhận xét tiêu cực
Các chuyên gia chia sẻ các phản ứng phổ biến nhất đối với thuốc tâm thần và sự thật thực sự là gì.

1.   BẠN SẼ NGHIỆN
"Phần lớn các loại thuốc mà tôi kê đơn không gây nghiện", bác sĩ Ken Nash, trưởng phòng dịch vụ lâm sàng tại Bệnh viện Tâm thần Tây UPMC ở Pennsylvania, nói với tờ TODAY. "Bạn sẽ không bị nghiện."
Bác sĩ tâm thần Tiến sĩ Ken Duckworth đồng ý. Mặc dù dùng thuốc đi kèm với rủi ro và tác dụng phụ, phần lớn các loại thuốc tâm thần không tạo thành thói quen.
Giám đốc y tế của Liên minh Quốc gia về Bệnh tâm thần (NAMI) nói với TODAY: "Việc kê đơn thuốc opioids (nhóm thuốc giảm đau) quá mức dẫn đến các vấn đề về heroin". Cho nên "Cuộc khủng hoảng lớn nhất không phải từ thuốc tâm thần."

Kết quả hình ảnh cho stop pill shaming

 2. BẠN SẼ PHẢI DÙNG THUỐC SUỐT ĐỜI.

Mọi người thường tin rằng nếu họ bắt đầu dùng thuốc họ sẽ luôn phải dùng nó. Nhưng điều đó không đúng.
Đối với một số điều kiện, như trầm cảm tái phát hoặc rối loạn lưỡng cực không có cách điều trị dứt điểm, và không có thuốc gì bạn có thể dùng mãi mãi, bác sĩ Michael Thase, giám đốc Chương trình Tâm trạng và Lo âu tại Trường Y Perelman thuộc Đại học Pennsylvania, nói với TODAY. Có thể là 10 đến 15 năm nữa, có thể có một phương pháp điều trị dứt điểm.
Duckworth cho biết ông tránh tuyệt đối vấn đề này khi nói chuyện với bệnh nhân.
Tôi sẽ nói “Tôi không giỏi như vậy. Tôi không thể dự đoán tính tổn thương của bạn sẽ phát triển như thế nào hoặc những phương pháp điều trị trong tương lai, ông ấy giải thích. Tôi sẽ không nói với ai đó, 'Bạn phải uống những loại thuốc tâm thần này cho đến hết đời."

3. UỐNG THUỐC CHỈ LÀ MỘT CÁI NẠNG CHỐNG.
Một cách nào đó, mọi người thường không muốn dùng thuốc cho sức khỏe tâm thần của họ vì họ nghĩ rằng đó là một cái “nạng”, điều này sẽ không giúp họ giải quyết vấn đề của họ. Nhưng các chuyên gia cho rằng đây là cách nhìn sai lầm.
Có những lúc mọi người thực sự được hưởng lợi từ việc sử dụng một cái nạng để giúp bạn phục hồi, ông Thase nói. Bạn không sử dụng thuốc như một giàn giáo để giữ bạn lại. Bạn đang sử dụng nó để điều trị các triệu chứng tiềm ẩn.

4. BẠN KHÔNG CẦN THUỐC CHO SỨC KHỎE TÂM THẦN.
Rất thường tình thì các sự dễ tổn thương trong sức khỏe tâm thần được coi là thiếu sót cá nhân và dùng thuốc cho thấy một người yếu đuối. Nhưng điều đó đơn giản là không đúng.
Tôi không nghe nhiều người chỉ trích về việc điều trị bệnh tiểu đường thì tại sao thuốc tâm thần lại khác. Những loại thuốc này đang giúp mọi người quản lý tâm trạng, đối phó với những giọng nói và những xung động gây hại.

5. TẠI SAO BẠN RẤT DỄ XÚC ĐỘNG NẾU BẠN ĐANG DÙNG THUỐC?
Mọi người lầm tưởng rằng nếu ai đó đang dùng thuốc điều trị bệnh tâm thần thì họ sẽ không bao giờ cảm thấy buồn hay có những ngày tồi tệ. Thuốc điều trị các triệu chứng nhưng không làm thay đổi con người bạn.
Bạn sẽ có những ngày tồi tệ và những ngày tồi tệ không phải là sự phản ánh của bệnh tâm thần. Nó không phải là một điều hữu ích để nghĩ rằng một người đã uống thuốc vì họ nhìn rất ảm đạm, Duckworth nói.
Nash đồng ý. Một người chồng bị trầm cảm không giúp làm việc vặt trước khi điều trị sẽ không bắt đầu giặt giũ một cách kỳ diệu vì anh ấy đã uống thuốc chẳng hạn.
Thuốc sẽ không chữa được mọi thứ, tôi nói trước với họ, Thuốc này sẽ giúp bạn cùng một số phần chắc chắn. Nó sẽ chẳng thay đổi bạn thành một người khác và nó chẳng thay đổi cả cuộc đời của bạn.

6. DÙNG THUỐC NGHĨA LÀ BẠN BỊ “ĐIÊN”.
Những người mắc bệnh tâm thần có sẽ có một tình trạng tạo ra các triệu chứng, điều có thể khiến họ cảm thấy buồn, có vấn đề về giấc ngủ, cảm thấy lo lắng hoặc thay đổi tâm trạng. Các bác sĩ kê đơn thuốc để điều trị các triệu chứng như trên chứ không phải vì họ “điên”.

Kết quả hình ảnh cho stop pill shaming

7. NẾU BẠN TIN VÀO CHÚA, CƯỜI NHIỀU HƠN HOẶC CỐ GẮNG HƠN THÌ BẠN SẼ KHÔNG CẦN THUỐC.
Khi nói đến sức khỏe tâm thần, mọi người thường nói với những người khác hãy tự nâng mình lên và vượt qua nó. Điều trị sức khỏe tâm thần không chỉ đơn giản là vấn đề về ý chí và  việc khuyên mọi người cố gắng hơn có thể có hại vì mọi người cảm thấy họ không cần phải yêu cầu giúp đỡ.
Có niềm tin giúp bạn kiên cường hơn. Những người có đức tin có khả năng chịu đựng đau khổ tốt hơn. Có những người hỗ trợ giúp bạn có khả năng mỉm cười cũng giống như một dấu hiệu của sự kiên cường. Điều này sẽ là vấn đề khi bạn khăng khăng rằng đây là lối thoát duy nhất.

8. BẠN CHỈ NÊN THỬ THỨ GÌ ĐÓ TỰ NHIÊN.
Trong khi thiền, yoga và tập thể dục có thể giúp ích cho một số tình trạng sức khỏe tâm thần, các phương thuốc tự nhiên, chẳng hạn như hoa Ban Âu hoặc cần sa không phải lúc nào cũng mang lại hiệu quả điều trị. Thực phẩm bổ sung không được quản lí tốt vì vậy các chuyên gia không chắc chắn những gì thực sự là chúng và có rất ít nghiên cứu về cách cần sa ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần.
Một trong những điều bạn không biết về những thứ không được quản lí là chúng được tạo ra như thế nào. Chúng ta không nghiên cứu cần sa vì đây là nhóm thuốc 1 (bất hợp pháp), Duck Duckworth nói. Vậy tại sao bạn lại dùng loại thuốc không được nghiên cứu hơn là thứ gì đó đã được thử nghiệm?



Tác giả: Meghan Holohan
Biên dịch + Biên Tập: The Uranian