Thứ Bảy, 31 tháng 8, 2019

Các Bác Sĩ Tâm Thần Sẽ Đi Về Đâu Khi Bệnh Nhân Của Họ Tự Sát


Một y tá cho tôi xem bài báo ngay khi tôi vừa bước vào. Tôi nhìn thấy một gương mặt cười của chàng trai trẻ mà tôi đã chăm sóc từ khi anh ấy còn là một cậu thiếu niên. Sau vài lần tự hoại và đe doạ tự sát, cậu được nhận vào bệnh viện Connecticut, nơi tôi đang làm việc với vai trò là bác sĩ tâm thần nhi và thanh thiếu niên. Tôi ước tôi được nhìn thấy nụ cười đó suốt quá trình điều trị. Nụ cười đó trông thật chân thật. Nhưng nụ cười trên bài báo là một cáo phó.

Tôi như vụn vỡ. Tôi chẳng biết làm gì với cảm giác của mình và thấy nhục nhã nếu để người ta biết. Lượng giá tự sát là một phần cơ bản trong chương trình đào tạo tâm thần của tôi, nhưng làm gì khi tự sát chưa diễn ra. Điều này đúng cho rất nhiều chương trình đào tạo tâm thần dọc theo cả nước. Điều cần nhấn mạnh ở đây là họ coi trọng việc phòng ngừa tự sát nhưng không hề có đủ sự tập trung trong việc chuẩn bị cho những bác sĩ thực tập về chuyện mất mát bệnh nhân bởi tự sát hay việc làm sao để đương đầu với kết quả sau đó.
Cái chết của chàng trai trẻ này đặc biệt đau lòng với tôi vì anh ấy không phải là người hoàn toàn xa lạ. Lần nhập viện cuối cùng của anh là hai tháng trước khi anh chết là lần đầu tiên tôi không chăm sóc cho anh. Chỉ trước lần nhập viện đó, quý bà dễ thương đã sửa quần áo cho tôi đề cập rằng cháu bà đã nhập viện được vài lần rồi. Bà ấy biết tôi là bác sĩ tâm thần và bắt đầu kể về hành trình gian khổ mà gia đình bà phải đối mặt vì sự chiến đấu với vấn đề sức khoẻ tâm thần của cháu mình. Sau đó bà ấy nhắc tên anh.
Trong lĩnh vực của tôi - cái dựa vào sự tin tưởng tuyệt đối của bệnh nhân, điều này khá khó khi mà vừa điều trị cho ai đó và cũng phải có mối quan hệ tách bạch với người thân của họ. Tôi cảm thấy tôi không thể giả vờ rằng tôi không biết đứa cháu. Tôi biết bà ấy hơn 10 năm và chúng tôi cũng chia sẻ nhiều chuyện cá nhân với nhau. Nhưng tôi cũng biết rằng tôi phải bảo vệ quyền bảo mật của bệnh nhân nên phải giữ im lặng về những nỗi sợ, những hy vọng và những giấc mơ chưa hiện thực hoá được của người cháu. Đối mặt với tình thế đạo đức nghề nghiệp khó xử này, tôi đã biện hộ cho bản thân mình bằng việc chăm sóc cho chàng trai trẻ trong lần tiếp theo anh ta nhập viện.
Giờ thì anh ấy tự sát rồi. Chỉ vài tháng sau khi tôi thừa nhận với chính mình rằng  những bí mật mình cất giữ phản ánh ý thức của tôi về việc mình đã thất bại như thế nào với người bà đó - và tôi cũng thiếu cả dũng khí để chạm mặt với bà ấy lần nữa.
Tôi bị ám ảnh bởi cuộc trò chuyện với cháu của bà suốt lần nhập viện cuối mà tôi chịu trách nhiệm theo sát anh ta. Anh ấy nói với tôi rằng anh cảm thấy hy vọng về cuộc sống trong khi ở bệnh viện nhưng thế giới ngoài kia thì thật khó lường. Đâu đó trong tâm trí bất định của tôi tôi tin rằng đã làm anh ta thất vọng - Tôi thất bại với việc làm cho thế giới này lường trước được. Nếu đó là thứ đảm bảo để anh còn sống tới ngày hôm nay, tôi lẽ ra nên tìm cách để làm được điều đó.
Những đánh giá trong nội bộ bệnh viện nếu được phân tích và tách bạch khỏi những tác động về mặt cảm xúc sâu sắc được cảm nhận bởi những bác sĩ và các công nhân viên. Với cương vị là một bác sĩ tôi cảm thấy bị ép buộc phải duy trì và thể hiện một sự trắc ẩn có lý do,  việc chấp nhận mất mát bệnh nhân như một phương diện khác trong nghề nghiệp của tôi. Và lẽ đương nhiên như những con người khác, chuyện tự sát của bệnh nhân để lại cho tôi cảm giác thiếu thốn.
Một người bạn thân hồi đại học, Tiến sĩ Heather Paxton đang làm việc tại một bệnh viện tâm thần bậc nhất bang Connecticut, nơi mà tôi cũng từng làm việc. Cô ấy miêu tả thế này: “Bạn sẽ không hề nhận ra rằng phóng xạ tác động nhiều như thế nào với bạn mãi cho đến sau này. Chuyện bệnh nhân tử vong do tự sát rất khó chịu, nhưng một số có thể thực sự gây chấn thương tâm lý.
Trong những ca tự sát mà Paxton đã làm việc trong suốt quá trình thực hành, một ca rất khó khăn liên quan tới một bệnh nhân trẻ muốn tự sát trong thời gian ngắn sau khi xuất viện. Cô ấy nhận ra mình có những cơn ác mộng thường xuyên và những ký ức không mong đợi. Cô nhận ra những điều này như là những dấu hiệu của stress sau sang chấn tạm thời.
Paxton cho rằng cô ấy may mắn. Những đồng nghiệp hiểu chuyện mà cô ấy đang trải qua, những thành viên của đội phản hồi khủng hoảng trong bệnh viện mời những bác sĩ lẫn điều dưỡng - những người từng làm việc với bệnh nhân đó để gặp mặt và nói về những chuyện đã xảy ra.
“Họ tạo ra một không gian và thừa nhận rằng bệnh nhân tự sát rất dễ gây căng thẳng. Nó là một trải nghiệm khó khăn thậm chí cho những người chăm sóc người khác.”
Tôi đã va vào Paxton ngay khi tôi vừa bước ra khỏi đơn vị nội trú sau khi nhìn thấy tin cáo phó. “Tôi rất lấy làm tiếc, tôi đã nghe về bệnh nhân của bạn,” cô ấy nói với tôi và chạm vào cánh tay tôi “tôi biết điều đó như thế nào”.  Đó là tất cả những gì cô ấy nói. Nhưng một vài từ này cũng có ý nghĩa rất nhiều. Tôi đã không cô độc.
Bệnh nhân tự sát được mô tả như một sự may rủi nghề nghiệp trong ngành tâm thần. Vào năm 2009, Bengi Melton và các đồng nghiệp từ trường Cao đẳng dược Baylor đã báo cáo trong Academic Psychiatry rằng chỉ một phần năm trưởng khoa tâm thần nội trú cảm thấy sẵn sàng đối mặt với hậu quả của một vụ tự tử của bệnh nhân. Như Paxton giải thích với tôi, hậu quả trở nên khó khăn hơn khi những bác sĩ tâm thần không được đào tạo về những gì phải mong đợi. 
Sự thiếu sót trong đào tạo có lẽ ngày càng rõ ràng hơn khi các bác sĩ tâm thần thấy mình đang ở trên tuyến đầu của một cuộc khủng hoảng sức khỏe tâm thần đang gia tăng. Theo Trung tâm kiểm soát dịch bệnh, tự tử hiện là nguyên nhân gây tử vong đứng hàng thứ hai ở những người trong độ tuổi từ 10 đến 34. Đáng báo động hơn nữa là tỷ lệ tự tử ở Mỹ tăng 28% từ năm 1999 đến năm 2006.
Tuy nhiên cũng có một vài trung tâm y tế đang bước từng bước để tạo ra những đội ngũ hỗ trợ cho các nhà lâm sàng của họ.
Một ví dụ là Bệnh viện Nhi đồng Boston. Vào năm 2003, họ đã quyết định thành lập một nhóm để can thiệp bất cứ khi nào có tình huống khó khăn liên quan đến bệnh nhân ảnh hưởng đến bất kỳ bác sĩ lâm sàng nào của bệnh viện. Lauren Coyne, một nhân viên xã hội và y tá trong Văn phòng hỗ trợ lâm sàng (OCS) của bệnh viện, đã đóng một vai trò quan trọng trong chương trình.
Tự sát khác với các trường hợp tử vong khác của bệnh nhân, Coyne lưu ý. Trong các bệnh mãn tính, các bác sĩ và gia đình thường có thể chuẩn bị cho cái chết của bệnh nhân. Không phải như vậy với tự tử, trong đó sự đột ngột mất mát có thể làm lung lay nền tảng của bất kỳ bác sĩ lâm sàng nào, cho dù là mới vào nghề hay kinh nghiệm sâu sắc. Văn phòng của cô phát hiện tới 300 trường hợp mới mỗi năm, Coyne cho biết các câu trả lời bắt đầu bằng nỗi buồn sâu sắc nhưng thường bao gồm một mối lo ngại ám ảnh rằng mọi việc lẽ ra nên được thực hiện khác hoặc tốt hơn để cứu bệnh nhân.
Điều quan trọng là đau buồn và mất mát có một vị trí trong cuộc đời của một bác sĩ tâm thần, giống như bất kỳ bác sĩ nào khác. Chúng tôi cũng đối phó với bệnh nan y. Tuy nhiên, tôi ước ai đó đã chuẩn bị cho tôi trong suốt những năm được đào tạo về cái chết của bệnh nhân. Tự tử có thể phòng ngừa được trong nhiều trường hợp, nhưng không phải tất cả, và khi chúng ta chăm sóc những bệnh nhân bị bệnh nặng thì điều này có thể xảy ra; nó không phải là một thất bại.
Các cơ quan cần phải đảm bảo rằng tác động cảm xúc sâu sắc mà các bác sĩ tâm thần cảm nhận phải được thừa nhận và cung cấp hỗ trợ phù hợp. Kiểm tra hình thức và các cuộc phỏng vấn bệnh viện thường không đề cập đến cảm giác mất mát hay đau buồn, mà thay vào đó tập trung vào việc xem xét phân tích các quyết định của nhóm lâm sàng. Sự chăm sóc bệnh nhân tâm thần không xảy ra trong sự cô lập chỉ trong văn phòng bác sĩ. Có nhiều hệ thống liên quan xác định hướng chăm sóc. Gánh nặng trách nhiệm không nên chỉ đặt lên một vài người. Mất mát này phải thuộc sở hữu của tất cả mọi người, những người đến với nhau để hỗ trợ lẫn nhau thì sau đó, đám mây mù xấu hổ và tội lỗi mới có thể được dỡ bỏ.
Tôi tự hỏi liệu tôi lẽ ra hành động khác đi với các nhân viên và bản thân mình không nếu một đội tương tự như của Coyne hỗ trợ chúng tôi dù biết rằng có những người hiểu và không đổ lỗi. Có lẽ tôi đã nhìn vào bức tranh trong cáo phó lần thứ hai. Và tôi hy vọng rằng lẽ ra tôi nên gom đủ can đảm để nói với bà của cậu ta rằng tôi cảm thấy rất tiếc như thế nào.


Zheala Qayyum là một bác sĩ tâm thần trẻ em và vị thành niên và là giám đốc đào tạo liên kết cho chương trình nghiên cứu tâm thần học trẻ em và vị thành niên tại Bệnh viện nhi đồng Boston. Cô là một giảng viên tại Trường Y Harvard và Trường Y Yale.

Lược dịch: The Uranian


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét