Một
y tá cho tôi xem bài báo ngay khi tôi vừa bước vào. Tôi nhìn thấy một gương mặt
cười của chàng trai trẻ mà tôi đã chăm sóc từ khi anh ấy còn là một cậu thiếu
niên. Sau vài lần tự hoại và đe doạ tự sát, cậu được nhận vào bệnh viện
Connecticut, nơi tôi đang làm việc với vai trò là bác sĩ tâm thần nhi và thanh
thiếu niên. Tôi ước tôi được nhìn thấy nụ cười đó suốt quá trình điều trị. Nụ
cười đó trông thật chân thật. Nhưng nụ cười trên bài báo là một cáo phó.

Tôi
như vụn vỡ. Tôi chẳng biết làm gì với cảm giác của mình và thấy nhục nhã nếu để
người ta biết. Lượng giá tự sát là một phần cơ bản trong chương trình đào tạo
tâm thần của tôi, nhưng làm gì khi tự sát chưa diễn ra. Điều này đúng cho rất
nhiều chương trình đào tạo tâm thần dọc theo cả nước. Điều cần nhấn mạnh ở đây
là họ coi trọng việc phòng ngừa tự sát nhưng không hề có đủ sự tập trung trong
việc chuẩn bị cho những bác sĩ thực tập về chuyện mất mát bệnh nhân bởi tự sát
hay việc làm sao để đương đầu với kết quả sau đó.
Cái
chết của chàng trai trẻ này đặc biệt đau lòng với tôi vì anh ấy không phải là
người hoàn toàn xa lạ. Lần nhập viện cuối cùng của anh là hai tháng trước khi
anh chết là lần đầu tiên tôi không chăm sóc cho anh. Chỉ trước lần nhập viện
đó, quý bà dễ thương đã sửa quần áo cho tôi đề cập rằng cháu bà đã nhập viện
được vài lần rồi. Bà ấy biết tôi là bác sĩ tâm thần và bắt đầu kể về hành trình
gian khổ mà gia đình bà phải đối mặt vì sự chiến đấu với vấn đề sức khoẻ tâm
thần của cháu mình. Sau đó bà ấy nhắc tên anh.
Trong
lĩnh vực của tôi - cái dựa vào sự tin tưởng tuyệt đối của bệnh nhân, điều này
khá khó khi mà vừa điều trị cho ai đó và cũng phải có mối quan hệ tách bạch với
người thân của họ. Tôi cảm thấy tôi không thể giả vờ rằng tôi không biết đứa
cháu. Tôi biết bà ấy hơn 10 năm và chúng tôi cũng chia sẻ nhiều chuyện cá nhân
với nhau. Nhưng tôi cũng biết rằng tôi phải bảo vệ quyền bảo mật của bệnh nhân
nên phải giữ im lặng về những nỗi sợ, những hy vọng và những giấc mơ chưa hiện
thực hoá được của người cháu. Đối mặt với tình thế đạo đức nghề nghiệp khó xử
này, tôi đã biện hộ cho bản thân mình bằng việc chăm sóc cho chàng trai trẻ
trong lần tiếp theo anh ta nhập viện.
Giờ
thì anh ấy tự sát rồi. Chỉ vài tháng sau khi tôi thừa nhận với chính mình
rằng những bí mật mình cất giữ phản ánh
ý thức của tôi về việc mình đã thất bại như thế nào với người bà đó - và tôi
cũng thiếu cả dũng khí để chạm mặt với bà ấy lần nữa.
Tôi
bị ám ảnh bởi cuộc trò chuyện với cháu của bà suốt lần nhập viện cuối mà tôi
chịu trách nhiệm theo sát anh ta. Anh ấy nói với tôi rằng anh cảm thấy hy vọng
về cuộc sống trong khi ở bệnh viện nhưng thế giới ngoài kia thì thật khó lường.
Đâu đó trong tâm trí bất định của tôi tôi tin rằng đã làm anh ta thất vọng -
Tôi thất bại với việc làm cho thế giới này lường trước được. Nếu đó là thứ đảm
bảo để anh còn sống tới ngày hôm nay, tôi lẽ ra nên tìm cách để làm được điều
đó.
Những
đánh giá trong nội bộ bệnh viện nếu được phân tích và tách bạch khỏi những tác
động về mặt cảm xúc sâu sắc được cảm nhận bởi những bác sĩ và các công nhân viên.
Với cương vị là một bác sĩ tôi cảm thấy bị ép buộc phải duy trì và thể hiện một
sự trắc ẩn có lý do, việc chấp nhận mất
mát bệnh nhân như một phương diện khác trong nghề nghiệp của tôi. Và lẽ đương
nhiên như những con người khác, chuyện tự sát của bệnh nhân để lại cho tôi cảm
giác thiếu thốn.
Một
người bạn thân hồi đại học, Tiến sĩ Heather Paxton đang làm việc tại một bệnh
viện tâm thần bậc nhất bang Connecticut, nơi mà tôi cũng từng làm việc. Cô ấy
miêu tả thế này: “Bạn sẽ không hề nhận ra rằng phóng xạ tác động nhiều như thế
nào với bạn mãi cho đến sau này. Chuyện bệnh nhân tử vong do tự sát rất khó
chịu, nhưng một số có thể thực sự gây chấn thương tâm lý.
Trong
những ca tự sát mà Paxton đã làm việc trong suốt quá trình thực hành, một ca
rất khó khăn liên quan tới một bệnh nhân trẻ muốn tự sát trong thời gian ngắn
sau khi xuất viện. Cô ấy nhận ra mình có những cơn ác mộng thường xuyên và
những ký ức không mong đợi. Cô nhận ra những điều này như là những dấu hiệu của
stress sau sang chấn tạm thời.
Paxton
cho rằng cô ấy may mắn. Những đồng nghiệp hiểu chuyện mà cô ấy đang trải qua,
những thành viên của đội phản hồi khủng hoảng trong bệnh viện mời những bác sĩ
lẫn điều dưỡng - những người từng làm việc với bệnh nhân đó để gặp mặt và nói
về những chuyện đã xảy ra.
“Họ
tạo ra một không gian và thừa nhận rằng bệnh nhân tự sát rất dễ gây căng thẳng.
Nó là một trải nghiệm khó khăn thậm chí cho những người chăm sóc người khác.”
Tôi
đã va vào Paxton ngay khi tôi vừa bước ra khỏi đơn vị nội trú sau khi nhìn thấy
tin cáo phó. “Tôi rất lấy làm tiếc, tôi đã nghe về bệnh nhân của bạn,” cô ấy
nói với tôi và chạm vào cánh tay tôi “tôi biết điều đó như thế nào”. Đó là tất cả những gì cô ấy nói. Nhưng một
vài từ này cũng có ý nghĩa rất nhiều. Tôi đã không cô độc.
Bệnh
nhân tự sát được mô tả như một sự may rủi nghề nghiệp trong ngành tâm thần. Vào
năm 2009, Bengi Melton và các đồng nghiệp từ trường Cao đẳng dược Baylor đã báo
cáo trong Academic Psychiatry rằng chỉ một phần năm trưởng khoa tâm thần nội
trú cảm thấy sẵn sàng đối mặt với hậu quả của một vụ tự tử của bệnh nhân. Như
Paxton giải thích với tôi, hậu quả trở nên khó khăn hơn khi những bác sĩ tâm
thần không được đào tạo về những gì phải mong đợi.
Sự
thiếu sót trong đào tạo có lẽ ngày càng rõ ràng hơn khi các bác sĩ tâm thần
thấy mình đang ở trên tuyến đầu của một cuộc khủng hoảng sức khỏe tâm thần đang
gia tăng. Theo Trung tâm kiểm soát dịch bệnh, tự tử hiện là nguyên nhân gây tử
vong đứng hàng thứ hai ở những người trong độ tuổi từ 10 đến 34. Đáng báo động
hơn nữa là tỷ lệ tự tử ở Mỹ tăng 28% từ năm 1999 đến năm 2006.
Tuy
nhiên cũng có một vài trung tâm y tế đang bước từng bước để tạo ra những đội
ngũ hỗ trợ cho các nhà lâm sàng của họ.
Một
ví dụ là Bệnh viện Nhi đồng Boston. Vào năm 2003, họ đã quyết định thành lập một
nhóm để can thiệp bất cứ khi nào có tình huống khó khăn liên quan đến bệnh nhân
ảnh hưởng đến bất kỳ bác sĩ lâm sàng nào của bệnh viện. Lauren Coyne, một nhân
viên xã hội và y tá trong Văn phòng hỗ trợ lâm sàng (OCS) của bệnh viện, đã
đóng một vai trò quan trọng trong chương trình.
Tự
sát khác với các trường hợp tử vong khác của bệnh nhân, Coyne lưu ý. Trong các
bệnh mãn tính, các bác sĩ và gia đình thường có thể chuẩn bị cho cái chết của
bệnh nhân. Không phải như vậy với tự tử, trong đó sự đột ngột mất mát có thể
làm lung lay nền tảng của bất kỳ bác sĩ lâm sàng nào, cho dù là mới vào nghề
hay kinh nghiệm sâu sắc. Văn phòng của cô phát hiện tới 300 trường hợp mới mỗi
năm, Coyne cho biết các câu trả lời bắt đầu bằng nỗi buồn sâu sắc nhưng thường
bao gồm một mối lo ngại ám ảnh rằng mọi việc lẽ ra nên được thực hiện khác hoặc
tốt hơn để cứu bệnh nhân.
Điều
quan trọng là đau buồn và mất mát có một vị trí trong cuộc đời của một bác sĩ
tâm thần, giống như bất kỳ bác sĩ nào khác. Chúng tôi cũng đối phó với bệnh nan
y. Tuy nhiên, tôi ước ai đó đã chuẩn bị cho tôi trong suốt những năm được đào
tạo về cái chết của bệnh nhân. Tự tử có thể phòng ngừa được trong nhiều trường
hợp, nhưng không phải tất cả, và khi chúng ta chăm sóc những bệnh nhân bị bệnh
nặng thì điều này có thể xảy ra; nó không phải là một thất bại.
Các
cơ quan cần phải đảm bảo rằng tác động cảm xúc sâu sắc mà các bác sĩ tâm thần
cảm nhận phải được thừa nhận và cung cấp hỗ trợ phù hợp. Kiểm tra hình thức và
các cuộc phỏng vấn bệnh viện thường không đề cập đến cảm giác mất mát hay đau
buồn, mà thay vào đó tập trung vào việc xem xét phân tích các quyết định của
nhóm lâm sàng. Sự chăm sóc bệnh nhân tâm thần không xảy ra trong sự cô lập chỉ
trong văn phòng bác sĩ. Có nhiều hệ thống liên quan xác định hướng chăm sóc.
Gánh nặng trách nhiệm không nên chỉ đặt lên một vài người. Mất mát này phải
thuộc sở hữu của tất cả mọi người, những người đến với nhau để hỗ trợ lẫn nhau
thì sau đó, đám mây mù xấu hổ và tội lỗi mới có thể được dỡ bỏ.
Tôi
tự hỏi liệu tôi lẽ ra hành động khác đi với các nhân viên và bản thân mình
không nếu một đội tương tự như của Coyne hỗ trợ chúng tôi dù biết rằng có những
người hiểu và không đổ lỗi. Có lẽ tôi đã nhìn vào bức tranh trong cáo phó lần
thứ hai. Và tôi hy vọng rằng lẽ ra tôi nên gom đủ can đảm để nói với bà của cậu
ta rằng tôi cảm thấy rất tiếc như thế nào.
Zheala Qayyum là một
bác sĩ tâm thần trẻ em và vị thành niên và là giám đốc đào tạo liên kết cho
chương trình nghiên cứu tâm thần học trẻ em và vị thành niên tại Bệnh viện nhi
đồng Boston. Cô là một giảng viên tại Trường Y Harvard và Trường Y Yale.
Lược dịch: The Uranian
Lược dịch: The Uranian
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét