Nếu tự sát có thể ngăn ngừa được vậy tại sao rất nhiều người đang chết vì nó? Tự sát là nguyên nhân thứ 10 dẫn tới cái chết ở Mĩ và tỷ lệ tự sát vẫn cứ tiếp tục tăng.
Một vài năm trước, tôi điều trị cho một bệnh nhân là một tiếp viên hàng không, em trai của cô đem cô tới đơn vị can thiệp khủng hoảng tâm thần sau khi nhận thấy hành vi bất thường của cô tại đám cưới. Sau buổi lễ, cô ấy âm thầm để lại quà và thư chúc mừng cho những thành viên trong gia đình. Khi em trai cô chở cô về nhà, anh phát hiện ra rất nhiều đồ nội thất và tranh vẽ biến mất, trong phòng tắm anh phát hiện ra ba hộp thuốc ngủ chưa mở.
Anh đối chất với cô và cô thừa nhận rằng cô đã quyên góp tài sản cho quỹ từ thiện. Cô cũng rút hết tiền hưu trong tài khoản và dùng số tiền đó trả cho tiền thế chấp căn nhà, khoản vay mua xe và tất cả những hoá đơn.
Khi tôi nói chuyện với cô, cô nói rằng đã hơn 4 tháng mà làm việc gì cũng không thấy vui - ăn, dọn dẹp nhà cửa, nói chuyện với hàng xóm - với những nỗ lực khủng khiếp. Cô cảm thấy kiệt sức bởi việc phải sống mỗi ngày và suy nghĩ phải chống chọi lại điều này trong nhiều năm sắp tới là sự giày vò mà cô không chịu đựng được
Sau khi lượng giá cô, tôi bảo cô rằng tôi nghĩ cô đã trải qua một pha trong rối loạn lưỡng cực và cô cần cam kết đến bệnh viện khi bắt đầu điều trị. Cô nhún vai và quăng cho tôi sự phản hồi khó chịu nhất: “Tôi không quan tâm.”
Một trong những lý do tôi nhớ người phụ nữ này rõ là vì vậy, trong tất cả những bệnh nhân mà tôi từng lượng giá nguy cơ tự sát, cô ấy là một trường hợp bất thường. Cô có sự cân nhắc và duy trì suy nghĩ kết thúc đời mình trong thời gian dài. May thay, điều đó khiến cô bị phát hiện ra và gia đình đã có thể can thiệp kịp thời. Cô đáp ứng tốt với lithium, một trong hai loại thuốc tâm thần được chứng minh giảm thiểu tự sát (loại còn lại là chống loạn thần, clozapine). Cơn trầm cảm của cô thuyên giảm chậm rãi và cô bắt đầu nhớ ra những thứ khiến đời cô đáng để sống.
Cô ấy chính xác là kiểu người muốn tự sát mà bác sĩ tâm thần có thể giúp - một người có bệnh tinh thần không chẩn đoán được nhưng chữa được và chỉ cần được giữ an toàn đến khi thuốc có tác dụng.
Hầu hết những bệnh nhân tự sát tôi gặp đều đi theo một kiểu khác, giống như trường hợp ở viện nội trú gần đây. Một phụ nữ trung niên không có tiền sử tâm thần được đem tới sau khi dùng quá liều giảm đau. Cô ấy bị mất nhà gần đây. Sau bảy năm yên bình thì cô ấy lại suy sụp và sử dụng methamphetamine để giữ mình thức suốt đêm sau khi bị tấn công tình dục trong công viên, nơi cô ấy ngủ hàng đêm. Cô ấy không có gia đình hỗ trợ, không bao hiểm, không tiền và không được giáo dục đến cấp phổ thông.
Cô không thấy được lối thoát nào cho cuộc đời mình. Vì vậy cô đi đến tiệm thuốc và chôm lấy vài chai thuốc chống viêm và chạy vào nhà vệ sinh nơi cô ấy nuốt hết tất cả những viên thuốc mà sức mình có thể trước khi có người bước vào.
Tôi hỏi viện trưởng làm sao để giúp cô trong khi cô còn ở trong bệnh viện. Sau một hồi, ông ấy đề nghị một cách nhẹ nhàng “Cho cổ bắt đầu với thuốc chống trầm cảm?”
Tôi có thể nói với ổng rằng ổng thừa biết điều đó nghe lố lăng cỡ nào.
Là bác sĩ, chúng tôi muốn giúp mọi người và điều đó có thể khó thừa nhận đối với chúng tôi khi những công cụ hỗ trợ có giới hạn. Thuốc chống trầm cảm dường như là giải pháp hiển nhiên, nhưng chỉ khoảng 40% đến 60% bệnh nhân sử dụng chúng cảm thấy khá hơn. Và trong khi gần như 1 trên 10 người Mĩ đều sử dụng thuốc chống trầm cảm, có rất ít bằng chứng thuyết phục chứng minh rằng chúng giúp giảm tự sát. Điều này là bởi vì có rất nhiều khó khăn dẫn tới chuyện tự sát mà không thể giúp được với việc thêm một chút serotonin. Thuốc chống trầm cảm không thể cung cấp công việc làm hoặc nhà ở, hàn gắn lại những mối quan hệ với thành viên trong gia đình hoặc đem lại sự yên bình.
Phòng ngừa tự sát cũng khó vì những thành viên gia đình hiếm khi biết được người mà họ yêu thương sắp cố gắng tự sát, thường thì người đó cũng không biết về chính bản thân họ. Kế hoạch kĩ càng của cô tiếp viên hàng không là bất thường, phổ biến nhiều hơn là sự chộp bất cứ gì vào tay để tự kết liễu mình trong khoảnh khắc tuyệt vọng.
Theo như một nghiên cứu năm 2016, hầu như một nửa số người cố gắng tự sát đều thực hiện một cách xung động. Một nghiên cứu năm 2001 đã phỏng vấn những người sống sót sau khi thử chạm mặt cái chết (được xác định với bất kì sự thử nào chí mạng mà không hề có sự phòng ngừa y tế hoặc bất kì sự thử nào mà dùng súng) đã nhận thấy đại khái ¼ người có cân nhắc hành động của mình trong khoảng ít hơn 5 phút. Điều này không cho thêm ai nhiều thời gian để để ý điều gì đó sai sai và nhảy vào cuộc hết.
Tuy nhiên những người cung cấp dịch vụ sức khoẻ tâm thần nhớ mãi chuyện kể rằng việc tự sát có thể phòng ngừa được nếu bệnh nhân và người trong gia đình chỉ cần làm theo những bước đúng. Những chiến dịch phòng ngừa tự sát khuyến khích mọi người vượt qua những định kiến và nói với ai đó hoặc gọi cho đường dây nóng. Điều muốn nói ở đây là sự giúp đỡ luôn có, hãy cứ đợi để được phát hiện ra.
Nhưng nó không hề dễ dàng như vậy. Những viện tâm thần ngoại trú tốt rất khó để tìm, khó để vào và khó đủ tiền để trả. Viện nội trú thì dành cho những ca nghiêm trọng và thậm chí với bệnh nhân còn không đủ giường bệnh. Những sự khởi đầu như các đường dây nóng can thiệp khủng hoảng và các chiến dịch chống định kiến tập trung vào việc mở ra cánh cửa chính đến những dịch vụ chăm sóc sức khoẻ tâm thần, nhưng mấy thứ này giống như xây thêm cửa cho một toà nhà vốn dĩ đã trống không.
Nhưng vẫn có những thứ chúng ta có thể làm để ngăn chặn tự sát. Một trong vài chiến lược “thử và đúng” đang làm giảm sự tiếp cận của mọi người đến những thứ gây chết người, vì vậy miễn là họ không chìm đắm vào sự vô vọng thì bất cứ sự thử nào cũng hầu như không nguy hiểm đến tính mạng. Nếu bệnh nhân đầu tiên của tôi không có khẩu súng trong nhà thì cô ấy lẽ ra không chết . Nếu bệnh nhân thứ hai của tôi túm lấy acetaminophen thay vì ibuprofen thì có lẽ cô ấy cũng không chết. Ngăn chặn cái chết trong khoảnh khắc tuyệt vọng đầy xung động đó là mấu chốt cho việc giảm thiểu tỉ lệ tự sát. Ngược lại với quan điểm phổ biến đó, chỉ có một số nhỏ người sống sót sau một lần cố gắng tự sát nghiêm trọng lại tiếp tục và chết trong lần cố gắng khác.
Sự quyết định dừng sống là một thứ mà người ta chọn bởi rất nhiều lý do, một vài người thì phải qua nhiều tháng, nhưng rất nhiều người chỉ vài phút. Những người này sẽ không ngăn lại được bởi hệ thống chăm sóc sức khoẻ tâm thần. Chúng tôi dĩ nhiên cần nhiều dịch vụ tâm thần hơn và nhiều nghiên cứu hơn để tốt hơn, ra tay điều trị nhanh hơn cho những người trầm cảm nặng và có ý định tự sát, nhưng điều đó sẽ không bao giờ đủ.
Chúng ta cần nhấn mạnh cái nguyên nhân cốt lõi của vấn đề tự sát của nước ta - nghèo đói, vô gia cư và những trải nghiệm biến cố kèm theo, tội phạm và ma tuý. Điều đó nghĩa là điều trị nghiện chất, tham vấn gia đình, nguồn nhà ở cho người thu nhập thấp, huấn luyện nghề nghiệp và tâm lý trị liệu cá nhân sẽ tốt hơn. Và với những người vẫn có nguy cơ trượt qua tất cả những điểm chốt này, chúng ta cần đảm bảo rằng họ không có sự tiếp cận với súng hay những thuốc gây chết người.
Chúng ta bỏ qua tất cả những điều này và vẫn tiếp tục kể nhau nghe rằng ta có giải pháp đơn giản trong tay, gia đình của những nạn nhân tự sát sẽ bị bỏ lại với câu hỏi là họ đã làm gì sai.
By Amy Barnhorst
Tiến sĩ Barnhorst là một bác sĩ tâm thần.
Lược dịch: The Uranian.